Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng – Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 366.57 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng – Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện" tập trung phân tích, đánh giá làm rõ một số số bất cập, hạn chế của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng và đề ra những kiến nghị hoàn thiện. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng – Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN Võ Phan Diễm Như1 1. Lớp CH21LK01. Email: nhuvpd@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm, theo đó bên bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bảo lãnh ngân hàng ra đời để đảm bảo tính lành mạnh của các quan hệ kinh tế, tạo ra sự tin tưởng để các bên giao kết hợp đồng, qua đó thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của nước ta vẫn còn một số bất cập, vướng mắc khiến cho các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong quá trình hoạt động cấp bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhiều tranh chấp phát sinh trong hoạt động này. Chính về thế, hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là một trong những yêu cầu bức thiết hiện nay. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá làm rõ một số số bất cập, hạn chế của pháp luật về bảo lãnh ngân hàn và đề ra những kiến nghị hoàn thiện Từ khóa: Bảo lãnh, ngân hàng, pháp luật. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hoạt động bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngân hàng, mang tính phổ biến tại các quốc gia trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, hoạt động bả lãnh ngân hàng góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ chủ thể nói chung và giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế do nó tạo ra sự tin tưởng cho các bên giao kết hợp đồng, qua đó mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia và cho nền kinh tế nói chung. Hiện nay, hoạt độngbảo lãnh ngân hàng phát triển ngày càng sôi động với nhiều loại hình bảo lãnh đa dạng đã tạo ra nguồn thu không nhỏ cho các ngân hàng thực hiện bảo lãnh. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khiến ngân hàng chịu những khoản thua lỗ hoặc mất uy tín. Một trong các nguyên nhân của các rủi ro này là do pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn một số bất cấp, như các quy định về hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn sơ sài, chưa đầy đủ, còn có nhiều mâu thuẫn và thậm chí còn có sự xung đột pháp luật với quy định của pháp luật nước ngoài và quốc tế. Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng ngày càng nhiều là minh chứng cho thấy pháp luật hiện hành về hoạt động bảo lãnh ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Xuất phát từ những yêu cầu trên, pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong thời gian tới cần phải tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tế triển khai thực hiện. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh ngân hàng là yêu cầu cấp thiết. 168 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp: tổng hợp các nhận định của chuyên gia, cũng như tổng hợp các số liệu về hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về bảo lãnh ngân hàng. 3. NỘI DUNG 3.1. Khái quát về hoạt động bảo lãnh ngân hàng 3.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng được ví như tấm giấy thông hành cho doanh nghiệp trong hoạt động mua bán trả chậm, nó làm cho các đối tác kinh doanh có cơ sở để tin tưởng lẫn nhau hơn. Bảo lãnh ngân hàng đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác. “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.29Trên đây là khái niệm bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự, theo đó cũng có thể hiểu bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với khái niệm như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”.30 Với cái nhìn tổng thể, khái niệm bảo lãnh này không khác nhiều so với quy định trong Bộ luật dân sự Pháp (Điều 2288)31, cụ thể Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Bên bảo lãnh cho một nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước chủ nợ về việc thực hiện nghĩa vụ nếu bên mắc nợ không tự mình thực hiện nghĩa vụ”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Với quy định này, sự liên đới đã được thiết lập giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh. Theo đó, bên nhận bảo lãnh nếu không được bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình mà không cần biết lý do bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ cho mình. Có thể thấy rằng luật Việt Nam đã bảo vệ khá tốt cho bên có quyền - bên nhận bảo lãnh, đồng thời đặt bên bảo lãnh ở vị trí “con nợ” bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ. 3.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng Từ những khái niệm trên ta thấy, thực chất bảo lãnh ngân hàng là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, do vậy mà nó vừa mang đặc điểm chung của bảo lãnh 29 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 30 Khoản 18 Điều 4 Luật số 17/2017/QH14 ng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng – Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN Võ Phan Diễm Như1 1. Lớp CH21LK01. Email: nhuvpd@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm, theo đó bên bảo lãnh cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Bảo lãnh ngân hàng ra đời để đảm bảo tính lành mạnh của các quan hệ kinh tế, tạo ra sự tin tưởng để các bên giao kết hợp đồng, qua đó thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về bảo lãnh ngân hàng của nước ta vẫn còn một số bất cập, vướng mắc khiến cho các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong quá trình hoạt động cấp bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh ngân hàng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhiều tranh chấp phát sinh trong hoạt động này. Chính về thế, hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là một trong những yêu cầu bức thiết hiện nay. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá làm rõ một số số bất cập, hạn chế của pháp luật về bảo lãnh ngân hàn và đề ra những kiến nghị hoàn thiện Từ khóa: Bảo lãnh, ngân hàng, pháp luật. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hoạt động bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngân hàng, mang tính phổ biến tại các quốc gia trên thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, hoạt động bả lãnh ngân hàng góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ chủ thể nói chung và giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế do nó tạo ra sự tin tưởng cho các bên giao kết hợp đồng, qua đó mang lại nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia và cho nền kinh tế nói chung. Hiện nay, hoạt độngbảo lãnh ngân hàng phát triển ngày càng sôi động với nhiều loại hình bảo lãnh đa dạng đã tạo ra nguồn thu không nhỏ cho các ngân hàng thực hiện bảo lãnh. Tuy nhiên, hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro khiến ngân hàng chịu những khoản thua lỗ hoặc mất uy tín. Một trong các nguyên nhân của các rủi ro này là do pháp luật về hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn một số bất cấp, như các quy định về hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn sơ sài, chưa đầy đủ, còn có nhiều mâu thuẫn và thậm chí còn có sự xung đột pháp luật với quy định của pháp luật nước ngoài và quốc tế. Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng ngày càng nhiều là minh chứng cho thấy pháp luật hiện hành về hoạt động bảo lãnh ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Xuất phát từ những yêu cầu trên, pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong thời gian tới cần phải tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tế triển khai thực hiện. Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh ngân hàng là yêu cầu cấp thiết. 168 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp: tổng hợp các nhận định của chuyên gia, cũng như tổng hợp các số liệu về hoạt động bảo lãnh ngân hàng. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về bảo lãnh ngân hàng. 3. NỘI DUNG 3.1. Khái quát về hoạt động bảo lãnh ngân hàng 3.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng được ví như tấm giấy thông hành cho doanh nghiệp trong hoạt động mua bán trả chậm, nó làm cho các đối tác kinh doanh có cơ sở để tin tưởng lẫn nhau hơn. Bảo lãnh ngân hàng đã trở thành loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác. “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.29Trên đây là khái niệm bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự, theo đó cũng có thể hiểu bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng với khái niệm như sau: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”.30 Với cái nhìn tổng thể, khái niệm bảo lãnh này không khác nhiều so với quy định trong Bộ luật dân sự Pháp (Điều 2288)31, cụ thể Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Bên bảo lãnh cho một nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước chủ nợ về việc thực hiện nghĩa vụ nếu bên mắc nợ không tự mình thực hiện nghĩa vụ”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 của Việt Nam quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Với quy định này, sự liên đới đã được thiết lập giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh. Theo đó, bên nhận bảo lãnh nếu không được bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thì có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình mà không cần biết lý do bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ cho mình. Có thể thấy rằng luật Việt Nam đã bảo vệ khá tốt cho bên có quyền - bên nhận bảo lãnh, đồng thời đặt bên bảo lãnh ở vị trí “con nợ” bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ. 3.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng Từ những khái niệm trên ta thấy, thực chất bảo lãnh ngân hàng là một hình thái đặc thù của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, do vậy mà nó vừa mang đặc điểm chung của bảo lãnh 29 Điều 335 Bộ luật Dân sự 2015 30 Khoản 18 Điều 4 Luật số 17/2017/QH14 ng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Kỷ yếu hội thảo khoa học Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng Ngân hàng thương mại Tranh chấp hoạt động bảo lãnh ngân hàng Chủ thể hoạt động bảo lãnh ngân hàngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Yếu tố nhận diện người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
11 trang 311 0 0 -
197 trang 274 0 0
-
Cách tính nhanh giá trị riêng của ma trận vuông cấp 2 và cấp 3
4 trang 262 0 0 -
Một số vấn đề về chuyển đổi số và ứng dụng trong doanh nghiệp
11 trang 254 0 0 -
7 trang 238 3 0
-
Quản lý dữ liệu thông tin người hưởng bảo hiểm xã hội
6 trang 224 0 0 -
Thuật toán khai phá tập mục thường xuyên trong cơ sở dữ liệu lớn thông qua mẫu đại diện
11 trang 215 0 0 -
11 trang 205 0 0
-
Phương pháp nhận diện biển số xe ô tô sử dụng học máy và thư viện OpenCV
6 trang 199 0 0 -
19 trang 184 0 0