Danh mục

Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía đông đồng bằng sông Cửu Long

Số trang: 16      Loại file: pdf      Dung lượng: 804.95 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 1    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Xuất phát từ những thách thức trong quá trình phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu quá, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của Tiểu vùng duyên hải phía đông, cho thấy cần thiết phải có phương án sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả, năng suất và chất lượng hơn trong tương lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì thế, tác giả thực hiện bài viết nhằm phân tích những thách thức trong phát triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại Tiểu vùng duyên hải phía đông.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại tiểu vùng duyên hải phía đông đồng bằng sông Cửu Long PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KỶ YẾU HỘI THẢO TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG XANH TẠI TIỂU VÙNG DUYÊN HẢI PHÍA ĐÔNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TS. Diệp Thanh Tùng  TS. Lê Thị Thu Diềm T iểu vùng Duyên Hải phía Đông (Tiểu vùng DHPĐ) bao gồm 4 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long và Trà Vinh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), có tốc độ phát triển kinh tế khá cao so với trung bình vùng trong những năm gần đây (năm 2017 tăng trưởng kinh tế của Trà Vinh là 12,09%, Tiền Giang là 7,4%, Bến Tre là 7,23%, Vĩnh Long là 5,62%) 1. Đây là những tỉnh có thế mạnh về phát triển nông nghiệp 2, được thiên nhiên ưu đãi với gần 70% diện tích đất phù sa, hệ thống sông ngòi nối liền các tỉnh, là cửa ngõ ra biển đông, với tổng dân số hơn 5 triệu người và có tổng diện tích gần 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích đất tự nhiên, 20% tổng diện tích đất nông nghiệp của toàn vùng ĐBSCL. Trong đó có tới trên 85% diện tích đất là dùng trong sản xuất nông nghiệp (NGTK, 2016). Hơn nữa, Tiểu vùng DHPĐ dẫn đầu cả vùng ĐBSCL về sản lượng thu hoạch cây ăn quả, số lượng vật nuôi cũng khá phát triển và đóng vai trò quan trọng cho ngành chăn nuôi ĐBSCL. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng các nguồn lực đang có dấu hiệu suy giảm và được đánh giá là chưa hiệu quả. Các yếu tố đầu vào qui trình sản xuất nông nghiệp và thủy sản chưa mang tính bền vững. Bên cạnh đó, các tỉnh Tiểu vùng DHPĐ còn đương đầu với khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu, từ đó sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản bị đe dọa và đời sống nông dân nghèo trong khu vực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Có thể thấy rõ, do việc xây dựng các đập thủy điện của các nước thượng nguồn như: Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc nên nguồn nước ngọt đổ về từ thượng nguồn sông Mekong hạn  Trưởng khoa Kinh tế, Luật – Đại học Trà Vinh.  Phó Trưởng khoa Kinh tế, Luật – Đại học Trà Vnh. 1 Tác giả tổng hợp từ báo cáo năm 2017 của các tỉnh thuộc tiểu vùng 2 Niên giám thống kê 2016: Khu vực kinh tế nông-lâm-thủy sản chiếm 34,2% GDP toàn tiểu vùng Duyên Hải Phía Đông. 15 chế gây ra tình trạng hạn hán. Tình trạng đất nhiễm mặn ngày càng nghiêm trọng ở một số tỉnh Tiểu vùng DHPĐ, điển hình, tại tỉnh Trà Vinh hiện nay, nước mặn dâng cao trên sông Tiền và sông Hậu và xâm nhập sâu hơn 60km và toàn tỉnh bị nước mặn 6 - 8% bao vây 1; nước trong nội đồng đang cạn kiệt, không đủ bơm tát trong khi ban ngày nắng gắt kéo dài đã khiến nhiều diện tích lúa bị chết khô, ngộ độc hữu cơ. Đến nay toàn tỉnh đã có gần 3.000ha lúa bị mất trắng, trong khi 38.000ha đông xuân không đủ nước bớm tát. Còn tại Bến Tre, nước ngọt là vấn đề khó khăn nhất hiện nay, hiện địa phương có trên 60.000 hộ dân phải dùng nước sinh hoạt nhiễm mặn. Nhiều nghiên cứu của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường chỉ ra tình trạng suy giảm về nguồn nước ngầm và sụt lún đất, thách thức về môi trường diễn ra phổ biến ở các tỉnh Tiểu vùng DHPĐ. Xuất phát từ những thách thức trong quá trình phát triển nông nghiệp trong bối cảnh toàn cầu quá, biến đổi khí hậu, thách thức môi trường của Tiểu vùng DHPĐ, cho thấy cần thiết phải có phương án sử dụng các nguồn lực nhằm đảm bảo hiệu quả, năng suất và chất lượng hơn trong tương lai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì thế, tác giả thực hiện bài viết nhằm phân tích những thách thức trong phát triển nông nghiệp hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp phát triển nông nghiệp theo mô hình tăng trưởng xanh tại Tiểu vùng DHPĐ. 1. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng xanh và mô hình tăng trưởng xanh trong nông nghiệp Tăng trưởng xanh là một vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới bởi đây được xem là mô hình tăng trưởng của tương lai. Khái niệm “tăng trưởng xanh” có nguồn gốc từ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tăng trưởng xanh được định nghĩa là kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với sự bền vững môi trường, đồng thời nâng cao hiệu quả sinh thái của tăng trưởng kinh tế và tăng cường sự phối hợp giữa yếu tố kinh tế và môi trường (UNDESA, 2012). Năm 2009, nước thành viên OECD đã thông qua tuyên bố nhận định rằng xanh hóa (green) và tăng trưởng (growth) có thể đi cùng với nhau, theo đó chiến lược tăng trưởng xanh mà có thể tích hợp các khía 1 Theo trung tâm dự báo khí tượng thủy văn tỉnh Trà Vinh. Trích: https://vov.vn/tin-24h/tra- vinh-ben-tre-no-luc-tiep-nuoc-khac-phuc-han-man-489516.vov 16 PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG KỶ YẾU HỘI THẢO TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH cạnh kinh tế, môi trường, công nghệ, tài chính và phát triển vào một khuôn khổ toàn diện. Tại Việt Nam, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 2010 đã thông qua chính sách phục hồi và phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh đến chiến lược dài hạn nhằm đảm bảo sự bền vững về môi trường và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm đa dạng hóa và bảo đảm khả năng phục hồi kinh tế. Theo quan điểm của World Bank (2012), tăng trưởng xanh là mô hình tăng trưởng hiệu quả, sạch và có tính đàn hồi (resilient) – hiệu quả trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch trong giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường, và có tính đàn hồi, chống chịu được trư ...

Tài liệu được xem nhiều: