Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 500.30 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết đi sâu nghiên cứu khảo sát và đánh giá một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu, phê bình văn học từ góc độ phân tâm học ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay từ phương diện thực hành. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC Ở VIỆT NAM - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỰC HÀNH Nguyễn Thành Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế Email: nguyenthanh27@hotmail.com TÓM TẮT Bài báo khảo sát và đánh giá một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu, phê bình văn học từ góc độ phân tâm học ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay từ phương diện thực hành. Trong đó, người viết chú trọng các giai đoạn 1930-1945 (phân tâm học bắt đầu hiện diện trong sáng tác và phê bình văn học ở Việt Nam), 1945-1975 (Phân tâm học có vị trí nhất định trong sáng tác và phê bình văn học ở miền Nam), 1986 đến nay (sự tái hiện của phân tâm học trong sáng tác và phê bình văn học với sự gạn lọc và chuyên sâu hơn). Từ khóa: Phân tâm học, Phê bình văn học, Freud. Phân tâm học lâu nay đã được vận dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có nghiên cứu, phê bình văn học. Ở Việt Nam sự hiện diện của phê bình phân tâm học đã được ghi nhận từ những năm 30 của thế kỷ 20 qua một số công trình nghiên cứu văn học dưới dạng đơn nhất hoặc kết hợp với các lý thuyết khác. Tuy nhiên, phê bình phân tâm học cũng như khá nhiều phương pháp phê bình khác từng hiện diện trong khoa nghiên cứu văn học trước tháng 8 năm 1945 không còn được vận dụng trong nghiên cứu văn học sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc. Lý do của việc này là do sự thống ngự độc tôn trong một thời gian dài của phê bình xã hội học mác xít. Thế nhưng, ngay cả ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, nơi mà các phương pháp sáng tác và phê bình văn học được sử dụng khá rộng rãi, thì phê bình phân tâm học cũng không chiếm một vị trí quan trọng. Điều đó, có thể vì một số lý do sau đây: - Văn hóa Việt Nam cho đến thời điểm 1975 và có thể kéo dài hơn một thập niên nữa về sau không phù hợp và cũng không cổ xúy cho việc “khoe” cái phần bản năng của mỗi con người. Vì thế, trong khâu sáng tác, nhà văn thường kháng cự với bản năng và vô thức. Trong khâu phê bình, người ta thường không chấp nhận các chi tiết bản năng và phương cách loại trừ bản năng lúc này là quy nó vào phạm trù chủ nghĩa tự nhiên [1]. - Thủy tổ của phân tâm học là Sidmund Freud. Trước năm 1991, Từ điển triết học chính thống của Liên Xô vẫn coi học thuyết S. Freud là phản động. Quan điểm này trực tiếp chi phối đến các nhà lý luận và phê bình văn học ở Việt Nam. Những quan điểm tương tự như thế ít nhiều được thể hiện trong các sách báo ở Việt Nam trước năm 1986, vì thế, phân tâm học đã nằm ngoài ý thức tìm kiếm và vận dụng của các nhà phê bình văn học. 11 Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành - Bản thân nhà văn cũng không “mặn mà” với các công trình phê bình tác phẩm của mình từ kiểu phân tích cơ chế “thăng hoa vô thức / bản năng”, một phần có thể bị suy diễn, nhưng nếu đúng thì điều đó cũng chẳng hay ho gì. - Đối tượng khảo sát và nghiên cứu của phê bình phân tâm học là những tác phẩm có dấu hiệu của cơ chế sáng tác - vô thức, biểu hiện bằng biểu tượng, hình tượng, ngôn ngữ… Những tác phẩm như thế thường không chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn, bởi vì, trong nhiều trường hợp, nhà văn chủ yếu sáng tác bằng cơ chế ý thức. Do vậy, chọn cách tiếp cận tác phẩm từ phân tâm học là một thử thách đối với nhà phê bình. - Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ phân tâm học là đi tìm những mảnh vỡ vô thức của nhà văn ẩn giấu dưới lớp vỏ ngôn từ mà hình thức cất giấu này ở mỗi nhà văn thường không giống nhau. Do vậy, nhà phê bình buộc phải nối dài những kiến giải và suy luận của các nhà phân tâm học, điều mà nhà phê bình phân tâm học Pháp J. Lacan từng quan niệm “ Nhà phân tâm học không phải chỉ lý giải một văn bản của vô thức đã có sẵn, mà anh ta vừa lý giải, vừa sản sinh ra nó” [2]. Và đây cũng là một trở ngại, nếu nhà phê bình không am hiểu sâu xa về phân tâm học. Ngày nay ở Việt Nam, khi mà những rào cản chi phối đến sáng tác và phê bình văn học được gỡ bỏ, thì phê bình phân tâm học có chỗ đứng trở lại trong khoa nghiên cứu văn học. Phê bình phân tâm học hiện nay ở Việt Nam tồn tại dưới hai dạng: 1) Nhà phê bình giả định tác phẩm của nhà văn là sự phóng chiếu những ham muốn vô thức và những mặc cảm của họ. Vì vậy, nhà phê bình một mặt phải chứng minh sự phóng chiếu này qua hệ thống biểu tượng, hình tượng, ngôn từ, màu sắc,…mặt khác, phải đi tìm những cứ liệu liên quan đến tiểu sử, các chi tiết đời tư của tác giả để lý giải điều được giả định; 2) Nhà phê bình phân tích một số bình diện nghệ thuật trong tác phẩm (tính cách, tâm lý, ngôn ngữ, hành động của nhân vật,…) để chỉ ra khả năng phân tích tâm lý phân tâm của nhà văn. Trong hai dạng trên thì dạng thứ nhất là “chính danh” của phê bình phân tâm học; còn dạng thứ hai chỉ là “thứ danh”. Theo Charles Mauron – nhà phê bình phân tâm học người Pháp – thì dạng thứ nhất được ông gọi là nhà phê bình phân tâm học, vì anh ta phải gắn một khoa học vào một nghệ thuật và phải sử dụng phương pháp xếp chồng v ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) PHÊ BÌNH PHÂN TÂM HỌC Ở VIỆT NAM - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỰC HÀNH Nguyễn Thành Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế Email: nguyenthanh27@hotmail.com TÓM TẮT Bài báo khảo sát và đánh giá một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu, phê bình văn học từ góc độ phân tâm học ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay từ phương diện thực hành. Trong đó, người viết chú trọng các giai đoạn 1930-1945 (phân tâm học bắt đầu hiện diện trong sáng tác và phê bình văn học ở Việt Nam), 1945-1975 (Phân tâm học có vị trí nhất định trong sáng tác và phê bình văn học ở miền Nam), 1986 đến nay (sự tái hiện của phân tâm học trong sáng tác và phê bình văn học với sự gạn lọc và chuyên sâu hơn). Từ khóa: Phân tâm học, Phê bình văn học, Freud. Phân tâm học lâu nay đã được vận dụng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có nghiên cứu, phê bình văn học. Ở Việt Nam sự hiện diện của phê bình phân tâm học đã được ghi nhận từ những năm 30 của thế kỷ 20 qua một số công trình nghiên cứu văn học dưới dạng đơn nhất hoặc kết hợp với các lý thuyết khác. Tuy nhiên, phê bình phân tâm học cũng như khá nhiều phương pháp phê bình khác từng hiện diện trong khoa nghiên cứu văn học trước tháng 8 năm 1945 không còn được vận dụng trong nghiên cứu văn học sau cách mạng tháng Tám ở miền Bắc. Lý do của việc này là do sự thống ngự độc tôn trong một thời gian dài của phê bình xã hội học mác xít. Thế nhưng, ngay cả ở miền Nam giai đoạn 1955-1975, nơi mà các phương pháp sáng tác và phê bình văn học được sử dụng khá rộng rãi, thì phê bình phân tâm học cũng không chiếm một vị trí quan trọng. Điều đó, có thể vì một số lý do sau đây: - Văn hóa Việt Nam cho đến thời điểm 1975 và có thể kéo dài hơn một thập niên nữa về sau không phù hợp và cũng không cổ xúy cho việc “khoe” cái phần bản năng của mỗi con người. Vì thế, trong khâu sáng tác, nhà văn thường kháng cự với bản năng và vô thức. Trong khâu phê bình, người ta thường không chấp nhận các chi tiết bản năng và phương cách loại trừ bản năng lúc này là quy nó vào phạm trù chủ nghĩa tự nhiên [1]. - Thủy tổ của phân tâm học là Sidmund Freud. Trước năm 1991, Từ điển triết học chính thống của Liên Xô vẫn coi học thuyết S. Freud là phản động. Quan điểm này trực tiếp chi phối đến các nhà lý luận và phê bình văn học ở Việt Nam. Những quan điểm tương tự như thế ít nhiều được thể hiện trong các sách báo ở Việt Nam trước năm 1986, vì thế, phân tâm học đã nằm ngoài ý thức tìm kiếm và vận dụng của các nhà phê bình văn học. 11 Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành - Bản thân nhà văn cũng không “mặn mà” với các công trình phê bình tác phẩm của mình từ kiểu phân tích cơ chế “thăng hoa vô thức / bản năng”, một phần có thể bị suy diễn, nhưng nếu đúng thì điều đó cũng chẳng hay ho gì. - Đối tượng khảo sát và nghiên cứu của phê bình phân tâm học là những tác phẩm có dấu hiệu của cơ chế sáng tác - vô thức, biểu hiện bằng biểu tượng, hình tượng, ngôn ngữ… Những tác phẩm như thế thường không chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn, bởi vì, trong nhiều trường hợp, nhà văn chủ yếu sáng tác bằng cơ chế ý thức. Do vậy, chọn cách tiếp cận tác phẩm từ phân tâm học là một thử thách đối với nhà phê bình. - Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ phân tâm học là đi tìm những mảnh vỡ vô thức của nhà văn ẩn giấu dưới lớp vỏ ngôn từ mà hình thức cất giấu này ở mỗi nhà văn thường không giống nhau. Do vậy, nhà phê bình buộc phải nối dài những kiến giải và suy luận của các nhà phân tâm học, điều mà nhà phê bình phân tâm học Pháp J. Lacan từng quan niệm “ Nhà phân tâm học không phải chỉ lý giải một văn bản của vô thức đã có sẵn, mà anh ta vừa lý giải, vừa sản sinh ra nó” [2]. Và đây cũng là một trở ngại, nếu nhà phê bình không am hiểu sâu xa về phân tâm học. Ngày nay ở Việt Nam, khi mà những rào cản chi phối đến sáng tác và phê bình văn học được gỡ bỏ, thì phê bình phân tâm học có chỗ đứng trở lại trong khoa nghiên cứu văn học. Phê bình phân tâm học hiện nay ở Việt Nam tồn tại dưới hai dạng: 1) Nhà phê bình giả định tác phẩm của nhà văn là sự phóng chiếu những ham muốn vô thức và những mặc cảm của họ. Vì vậy, nhà phê bình một mặt phải chứng minh sự phóng chiếu này qua hệ thống biểu tượng, hình tượng, ngôn từ, màu sắc,…mặt khác, phải đi tìm những cứ liệu liên quan đến tiểu sử, các chi tiết đời tư của tác giả để lý giải điều được giả định; 2) Nhà phê bình phân tích một số bình diện nghệ thuật trong tác phẩm (tính cách, tâm lý, ngôn ngữ, hành động của nhân vật,…) để chỉ ra khả năng phân tích tâm lý phân tâm của nhà văn. Trong hai dạng trên thì dạng thứ nhất là “chính danh” của phê bình phân tâm học; còn dạng thứ hai chỉ là “thứ danh”. Theo Charles Mauron – nhà phê bình phân tâm học người Pháp – thì dạng thứ nhất được ông gọi là nhà phê bình phân tâm học, vì anh ta phải gắn một khoa học vào một nghệ thuật và phải sử dụng phương pháp xếp chồng v ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học Phê bình phân tâm học Phân tâm học ở Việt Nam Phê bình vănhọc Văn học Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (Từ sau cách mạng tháng Tám 1945): Phần 1 (Tập 2)
79 trang 373 12 0 -
Giáo trình Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975: Phần 1 - Trường ĐH Thủ Dầu Một
142 trang 341 8 0 -
6 trang 300 0 0
-
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 272 0 0 -
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 258 0 0 -
5 trang 234 0 0
-
Luận án tiến sĩ Ngữ văn: Dấu ấn tư duy đồng dao trong thơ thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến nay
193 trang 229 0 0 -
10 trang 214 0 0
-
Khảo sát, đánh giá một số thuật toán xử lý tương tranh cập nhật dữ liệu trong các hệ phân tán
7 trang 209 0 0 -
8 trang 209 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
6 trang 205 0 0
-
Khách hàng và những vấn đề đặt ra trong câu chuyện số hóa doanh nghiệp
12 trang 203 0 0 -
91 trang 181 0 0
-
9 trang 167 0 0
-
Chi tiết 'cái chết' trong tác phẩm của Nam Cao
9 trang 166 0 0 -
19 trang 166 0 0
-
8 trang 164 0 0
-
Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh
11 trang 156 0 0 -
8 trang 152 0 0