Danh mục

Rau má và Ung thư

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.63 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghiên cứu duy nhất về tác dụng của Rau má (Centella asiatica) ghi nhận trích tinh rau má ức chế được sự tăng trưởng của tế bào ung thư (in vivo và cả in vitro) nơi thú vật (Journal of Ethnopharmacology Số 48-1995). Tuy nhiên các nghiên cứu khác cũng trên thú vật về hoạt tính của các hợp chất liên hệ cũng đã bổ xung cho các kết quả này: các hợp chất được nghiên cứu bao gồm ursolic, oleanolic và boswellic acid, các triterpenes liên hệ đến asiatic acid (là chất terpene chính có trong rau má)....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Rau má và Ung thư Rau má và Ung thư Nghiên cứu duy nhất về tác dụng của Rau má (Centella asiatica) ghinhận trích tinh rau má ức chế được sự tăng trưởng của tế bào ung thư (invivo và cả in vitro) nơi thú vật (Journal of Ethnopharmacology Số 48-1995).Tuy nhiên các nghiên cứu khác cũng trên thú vật về hoạt tính của các hợpchất liên hệ cũng đã bổ xung cho các kết quả này: các hợp chất được nghiêncứu bao gồm ursolic, oleanolic và boswellic acid, các triterpenes liên hệ đếnasiatic acid (là chất terpene chính có trong rau má). Ngoài các nghiên cứu vềcấu trúc hóa học cũng cho rằng các triterpinoids của Centella có khả năngchống ung thư (ví dụ như hoạt tính đói kháng hoạt động của collagenase..) Đại cương về Rau má : Rau má (Centella asiatica) = Gotu kola, Indian pennywort là một câyloại thảo, nhiệt đới đã được sử dụng trong các nền dược học dân gian để trịmột số bệnh như phỏng, bệnh về tĩnh mạch, và ung loét ngoài da. Cácnghiên cứu khoa học đã xác nhận dùng rau má bằng cách uống hay thoa đắpngoài da giúp vết thương mau lành, kể cả các vết thương khi giải phẫu, cácvết lở loét ung nhọt và cả vết lở do bệnh cùi (Indian Journal ofPharmacology Số 28-1996). Rau má được dùng uống để trị các bệnh về tĩnhmạch như sa tĩnh mạch ở chân, sưng phù. Dạng chế phẩm thông dụng nhấtlà: Phần trích triterpene tổng cộng được tiêu chuân hóa (Standardized totaltriterpenic fraction= TTFCA) chứa asiatic acid (khoảng 30%), madecassicacid (khoảng 30%) và asiaticoside (khoảng 40%) (asiaticoside là mộtglycoside của asiatic acid). Liều uống của TTFCA thường từ 50 đến 180 mgmỗi ngày (liều này thường được cơ thể dung nạp rất tốt). (ghi chú : trong asiaticoside, khoảng 62% là asiatic acid và phần lớncác glycoside được phân cắt trong cơ thể thành đưởng và asiatic acid nênTTFCA có thể được xem là chứa lượng tương đương với khoảng 55%asiatic acid) Hàm lượng triterpenoids tổng cộng trong Rau má thay đổi từ 1.1 đến 8%. Đa số mẫu thu hoạch chứa trung bình từ 2.2 đến 3.4 % (Current ScienceSố 38-1969) Do đó phải cần khoảng 2.1 gram Rau má để có được liều 60 mgTTFCA. Triterpenoids của Rau má có thể có hoạt tính diệt bào (in vitro),nhưng cho đến nay mới chỉ có một nghiên cứu để xác định hoạt tính này:nghiên cứu cũng đã ghi nhận phần trích terpenoids của Rau má diệt được cáctế bào ung thư loại lymphoma Daltonvà Ehrlich, nhưng đã không xác địnhchính xác loại terpenoid nào; trong khi đó hoạt tính diệt bào của cáctriterpenoids loại ursane như ursolic và oleanolic acid lại được chú ý nhiềuhơn (ursolic và oleanolic acid là 2 isomers). Cơ chế hoạt động của asiaticacid rất có thể giống cơ chế của các acid trên. Các nghiên cứu ‘in vitro’ vềursolic và oleanolic acid ghi nhận các acid nay có khả năng ngăn chặn sựphát triển của một số giòng tế bào ung thư ở các nồng độ IC50 từ 1 đến 20microM.(Anticancer Research Số 16-1996 và Cancer Letter Số 10-1996).Mặt khác cả oleanolic acid và ursolic acid đều làm giảm sự sinh sản của tếbào nội mạc ở các nồng độ IC50 từ 5 đến 20 micro M (Planta Medica Số 64-1998). Do đó các triterpinoid này rất có thể sẽ hữu dụng để trị ung thư bằngcách ngăn chặn tiến trình angiogenesis (tiến trình tăng trưởng của các mạchmáu tân tạo để nuôi dưỡng tế bào tân sinh) cần đến sự sinh sản của các tếbào nội mạc để tạo ra các mạch máu mới. Các acid oleanolic và ursolic cũng có các tác động chống u bướu (invivo): Liều từ 50-100 mg/kg oleanolic acid hay ursulic acid, dùng bằng cáchchích qua màng phúc toan ức chế được sự tăng trưởng của bướu độc loạisarcoma nơi chuột khoảng 30 %; liều thấp hơn không có tác động. Các hợpchất này cũng còn bảo vệ hệ miễn nhiễm của chuột chống lại tác hại của bứcxạ (Cancer Letter Số 111-1997). Liều tương đương (100 mg/kg chích quamàng phúc toan), áp dụng cho người, bằng cách uống được định là khoảng1.3 gram/ ngày. Do khả năng chống u-bướu này nên một đặc chế tại Nhật đãđược dùng để trị ung thư máu loại leukemia nonlymphatic. Asiatic acid cũngcó thể có các hoạt tính tương tự như ursolic và oleanolic acid. Tuy nhiên đểdễ ứng dụng trong dân gian cần chú ý đến hoạt tính của toàn cây Rau máhơn là các hoạt chất chính đã được ly trích và tinh chế. 1- Cơ chế chống Ung thư của Rau má : Rau má, do ở các hoạt tính ức chế men collagenase và men hyaluronidase có thể có khả năng chống Ung thư qua các tiến trình: - Angiogeneis : - Ngăn chặn Angiogenesis. - Ức chế hoạt động của bFGF (basic Fibroblast Growth Factor) - Gây trở ngại cho việc tăng thẩm thấu mạch máu. - Xâm nhập (Invasion) và Lan tràn của tế bào ung thư (Metastasis) : - Ngăn chặn sự xâm nhập (do chặn collagenase và hyaluronidase) - Ngăn chặn sự chuyển di tế bào. - Ức chế metastasis. Trong nghiên cứu về khả năng chống ung thư của Rau má, kết quả ghinhận là liều cho uống một dịc ...

Tài liệu được xem nhiều: