Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng mè
Số trang: 25
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.64 MB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng mè gồm các nội dung chính như: Tổng quan về cây mè; Kỹ thuật trồng cây mè; Kỹ thuật chăm sóc cây mè. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng mè SỞ NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG TỈNH VĨNH LONG TÀI LIỆU TẬP HUẤN KHUYẾN NÔNG KỸ THUẬT TRỒNG MÈ (Ban hành theo Quyết định số 280/QĐ-TTKN, ngày 24/5/2017 của Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long) VĨNH LONG,1 THÁNG 5/2017 KỸ THUẬT TRỒNG MÈ (Sesamum indicum) Biên soạn: KS Nguyễn Thị Hồng Thắm Trạm Khuyến nông huyện Bình Tân I. TỔNG QUAN VỀ CÂY MÈ 1 . Giới thiệu chung 1.1 Nguồn gốc và sự phân bố của cây mè Cây mè (Sesamum indicum) có nguồn gốc từ Châu Phi. Có nhiều ý kiến cho rằng Ethiopi là nguyên sản của giống mè trồng hiện nay. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng vùng Afghan - Persian mới là nguyên sản của các giống mè trồng. Mè là loại cây có dầu được trồng lâu đời (khoảng 2.000 năm trước công nguyên). Sau đó được đưa vào vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía Tây - vào Châu Âu và phía Nam vào Châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước Nam Á Trung Quốc. Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây mè. Ở Nam Mỹ, mè được du nhập qua từ Châu Phi sau khi người Âu Châu khám phá ra ở Châu Mỹ vào năm 1492 (do Chritophecoloms người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) đem mè đi bán. Cây mè được coi là cây lấy dầu lâu đời nhất được biết đến, thuần hóa hơn 5.000 năm trước. Mè rất chịu hạn. Nó đã được gọi là một cây trồng “sống sót”, với khả năng phát triển nơi mà hầu hết cây trồng thất bại. 1.2 Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cây mè Mè có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt mè có chứa 45 - 55% dầu, 19 - 20% Protein, 8-11% đường, 5% nước, 4-6% chất tro. Thành phần axit hữu cơ chủ yếu của dầu mè là 2 loại acid béo chưa no như sau: - Axit oleic (C18H34O2): 45,3 - 49,4%. - Axit linoleic (C18H 32O2): 37,7 - 41,2%. Do đó hạt mè được sử dụng rất phổ biến để chế biến nhiều dạng thức ăn (kẹo mè, chè mè...). Trong dân gian, còn dùng mè để nấu cháo (nấu nếp với mè) cho người mẹ cho con bú rất tốt. Ngoài ra mè còn được ép lấy dầu. Dầu mè là sản phẩm tiêu thụ nhiều nhất, dầu mè rất tốt, khác với các loại dầu khác là không bị oxy hóa nên không chuyển thành mùi khó chịu. Vì trong mè có chứa chất sesamol, ngăn cản quá trình oxy hóa. Trong kỹ nghệ, dầu mè sử dụng để bôi trơn máy móc cao cấp: máy bay, máy dùng trong khoa học kỹ thuật, dầu dùng để pha sơn, pha vecni rất tốt vì có màu láng bóng. Trong y học, dùng để làm thuốc viên con nhộng. Dầu mè còn dùng trong mỹ phẩm, ở Ấn Độ, người ta còn dùng dầu mè để bôi vào tóc cho bóng mượt. 2 Nếu so sánh hàm lượng acid amin có trong bột mè và trong thịt, ta thấy các acid amin có trong bột mè gần tương đương với acid amin có trong thịt. Sau đây là bảng phân tích thành phần dinh dưỡng có trong bột mè và trong thịt: Acid amin Bột mè % Thịt % Lysin 2,8 10,0 Triptophan 1,8 1,4 Methionine 3,2 3,2 Phenilatanine 8,0 5,0 Leucine 7,5 8,0 Isoleucine 4,8 6,0 Valine 5,1 5,5 Threonine 4,0 5,0 Ngoài ra cây mè còn được dùng làm thuốc chữa bệnh. Mè có 02 loại mè trắng và mè đen, trong đó mè đen nhiều dược tính hơn nên được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y, hạt mè có tính ngọt, khí bình, không độc, bổ não, nhuận trường, giúp gan thanh lọc chất độc, bổ ngũ tạng, hư nhược, ích khí lực, đầy tủy não, bền gân cốt, sáng mắt, thêm thông minh, nuôi máu, cường thận, làm đen râu tóc, thêm sức chịu đựng đói khát, hư nhược tổn khí. Hạt mè có tác dụng ích khí, dưỡng huyết, nhuận táo, bổ trung, hòa ngũ tạng, chữa được chứng phong thấp, lỡ ngứa và hư lao. Dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao dán nhọt. Lá mè vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp. Nấu lá mè làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt, da mặt thêm tươi tắn. Nếu giã lá mè tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được bệnh rong huyết. Theo phân tích của Tây y, trong mè có dồi dào chất đạm và chất béo chưa bão hòa (có tác dụng chống xơ vữa động mạch); ngoài ra, còn có nhiều sinh tố, đặc biệt sinh tố B1, B2, tiền sinh tố A (bổ mắt, chống bệnh quáng gà và mù do khô mắt), các chất khoáng như chất vôi, sắt, iốt (chống bướu cổ), v.v…, lại thêm chất sesamolin chống sự tan hóa (làm cho máu chua) và lão hóa (bị già cỗi) của cơ thể; chất Lecithin cần cho não và hệ sinh dục (tạo các kích thích tố kéo dài tuổi xuân). 2. Đặc điểm hình thái 2.1 Rễ Thuộc loại rễ cọc, rễ chính ăn sâu. Đồng thời hệ rễ bên của mè cũng rất phát triển về bề ngang. Rễ mè phân bố chủ yếu ở lớp đất từ 0 - 25 cm. Nếu mè ở vùng đất cát, vùng khô hạn, rễ cái có thể ăn sâu từ 1m đến 1,2 m để tìm 3 nguồn nước ngầm. Trên đất cát, rễ mọc tốt hơn trên đất sét và không chịu ngập trong thời gian ngắn. Đặc tính của rễ mè phát triển kém nên dễ bị đổ ngã khi có mưa to gió lớn. Vì vậy khi trồng mè, chú ý phải vun gốc, xẻ rãnh để thoát nước (nhất là trồng vào mùa mưa). 2.2 Thân Thân mè thuộc thân thảo, thân thường có hình 4 cạnh với những tiết diện vuông và những rãnh dọc. Tuy nhiên, có những dạng thân rất rỗng hình chữ nhật. Thân có thể tròn, trên thân có nhiều lóng hoặc ít lóng. Đặc tính này cũng để phân biệt giống. Màu sắc của thân thay đổi từ màu xanh nhạt đến màu tím, phổ biến nhất là màu xanh đậm. Thân cao từ 60-120 cm. Trong điều kiện hạn, thân có thể thấp hơn, nhưng cũng có giống đạt đến 3m. Hình 1. Câ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng mè SỞ NÔNG NGHIỆP & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG TỈNH VĨNH LONG TÀI LIỆU TẬP HUẤN KHUYẾN NÔNG KỸ THUẬT TRỒNG MÈ (Ban hành theo Quyết định số 280/QĐ-TTKN, ngày 24/5/2017 của Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Vĩnh Long) VĨNH LONG,1 THÁNG 5/2017 KỸ THUẬT TRỒNG MÈ (Sesamum indicum) Biên soạn: KS Nguyễn Thị Hồng Thắm Trạm Khuyến nông huyện Bình Tân I. TỔNG QUAN VỀ CÂY MÈ 1 . Giới thiệu chung 1.1 Nguồn gốc và sự phân bố của cây mè Cây mè (Sesamum indicum) có nguồn gốc từ Châu Phi. Có nhiều ý kiến cho rằng Ethiopi là nguyên sản của giống mè trồng hiện nay. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng vùng Afghan - Persian mới là nguyên sản của các giống mè trồng. Mè là loại cây có dầu được trồng lâu đời (khoảng 2.000 năm trước công nguyên). Sau đó được đưa vào vùng tiểu Á (Babylon) và được di về phía Tây - vào Châu Âu và phía Nam vào Châu Á dần dần được phân bố đến Ấn Độ và một số nước Nam Á Trung Quốc. Ấn Độ được xem như là trung tâm phân bố của cây mè. Ở Nam Mỹ, mè được du nhập qua từ Châu Phi sau khi người Âu Châu khám phá ra ở Châu Mỹ vào năm 1492 (do Chritophecoloms người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha) đem mè đi bán. Cây mè được coi là cây lấy dầu lâu đời nhất được biết đến, thuần hóa hơn 5.000 năm trước. Mè rất chịu hạn. Nó đã được gọi là một cây trồng “sống sót”, với khả năng phát triển nơi mà hầu hết cây trồng thất bại. 1.2 Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cây mè Mè có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt mè có chứa 45 - 55% dầu, 19 - 20% Protein, 8-11% đường, 5% nước, 4-6% chất tro. Thành phần axit hữu cơ chủ yếu của dầu mè là 2 loại acid béo chưa no như sau: - Axit oleic (C18H34O2): 45,3 - 49,4%. - Axit linoleic (C18H 32O2): 37,7 - 41,2%. Do đó hạt mè được sử dụng rất phổ biến để chế biến nhiều dạng thức ăn (kẹo mè, chè mè...). Trong dân gian, còn dùng mè để nấu cháo (nấu nếp với mè) cho người mẹ cho con bú rất tốt. Ngoài ra mè còn được ép lấy dầu. Dầu mè là sản phẩm tiêu thụ nhiều nhất, dầu mè rất tốt, khác với các loại dầu khác là không bị oxy hóa nên không chuyển thành mùi khó chịu. Vì trong mè có chứa chất sesamol, ngăn cản quá trình oxy hóa. Trong kỹ nghệ, dầu mè sử dụng để bôi trơn máy móc cao cấp: máy bay, máy dùng trong khoa học kỹ thuật, dầu dùng để pha sơn, pha vecni rất tốt vì có màu láng bóng. Trong y học, dùng để làm thuốc viên con nhộng. Dầu mè còn dùng trong mỹ phẩm, ở Ấn Độ, người ta còn dùng dầu mè để bôi vào tóc cho bóng mượt. 2 Nếu so sánh hàm lượng acid amin có trong bột mè và trong thịt, ta thấy các acid amin có trong bột mè gần tương đương với acid amin có trong thịt. Sau đây là bảng phân tích thành phần dinh dưỡng có trong bột mè và trong thịt: Acid amin Bột mè % Thịt % Lysin 2,8 10,0 Triptophan 1,8 1,4 Methionine 3,2 3,2 Phenilatanine 8,0 5,0 Leucine 7,5 8,0 Isoleucine 4,8 6,0 Valine 5,1 5,5 Threonine 4,0 5,0 Ngoài ra cây mè còn được dùng làm thuốc chữa bệnh. Mè có 02 loại mè trắng và mè đen, trong đó mè đen nhiều dược tính hơn nên được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y, hạt mè có tính ngọt, khí bình, không độc, bổ não, nhuận trường, giúp gan thanh lọc chất độc, bổ ngũ tạng, hư nhược, ích khí lực, đầy tủy não, bền gân cốt, sáng mắt, thêm thông minh, nuôi máu, cường thận, làm đen râu tóc, thêm sức chịu đựng đói khát, hư nhược tổn khí. Hạt mè có tác dụng ích khí, dưỡng huyết, nhuận táo, bổ trung, hòa ngũ tạng, chữa được chứng phong thấp, lỡ ngứa và hư lao. Dùng ngoài đắp trị sưng tấy, vết bỏng và làm cao dán nhọt. Lá mè vị ngọt, tính lạnh, có tác dụng ích khí, bổ não tủy, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp. Nấu lá mè làm nước gội đầu thường xuyên giúp tóc có màu đen mượt, da mặt thêm tươi tắn. Nếu giã lá mè tươi vắt lấy nước cốt uống chữa được bệnh rong huyết. Theo phân tích của Tây y, trong mè có dồi dào chất đạm và chất béo chưa bão hòa (có tác dụng chống xơ vữa động mạch); ngoài ra, còn có nhiều sinh tố, đặc biệt sinh tố B1, B2, tiền sinh tố A (bổ mắt, chống bệnh quáng gà và mù do khô mắt), các chất khoáng như chất vôi, sắt, iốt (chống bướu cổ), v.v…, lại thêm chất sesamolin chống sự tan hóa (làm cho máu chua) và lão hóa (bị già cỗi) của cơ thể; chất Lecithin cần cho não và hệ sinh dục (tạo các kích thích tố kéo dài tuổi xuân). 2. Đặc điểm hình thái 2.1 Rễ Thuộc loại rễ cọc, rễ chính ăn sâu. Đồng thời hệ rễ bên của mè cũng rất phát triển về bề ngang. Rễ mè phân bố chủ yếu ở lớp đất từ 0 - 25 cm. Nếu mè ở vùng đất cát, vùng khô hạn, rễ cái có thể ăn sâu từ 1m đến 1,2 m để tìm 3 nguồn nước ngầm. Trên đất cát, rễ mọc tốt hơn trên đất sét và không chịu ngập trong thời gian ngắn. Đặc tính của rễ mè phát triển kém nên dễ bị đổ ngã khi có mưa to gió lớn. Vì vậy khi trồng mè, chú ý phải vun gốc, xẻ rãnh để thoát nước (nhất là trồng vào mùa mưa). 2.2 Thân Thân mè thuộc thân thảo, thân thường có hình 4 cạnh với những tiết diện vuông và những rãnh dọc. Tuy nhiên, có những dạng thân rất rỗng hình chữ nhật. Thân có thể tròn, trên thân có nhiều lóng hoặc ít lóng. Đặc tính này cũng để phân biệt giống. Màu sắc của thân thay đổi từ màu xanh nhạt đến màu tím, phổ biến nhất là màu xanh đậm. Thân cao từ 60-120 cm. Trong điều kiện hạn, thân có thể thấp hơn, nhưng cũng có giống đạt đến 3m. Hình 1. Câ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng mè Kỹ thuật chăm sóc cây mè Hướng dẫn trồng mè Cách trồng cây mèTài liệu liên quan:
-
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng bắp nếp
14 trang 27 0 0 -
124 trang 24 0 0
-
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng đậu bắp
17 trang 19 0 0 -
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng củ sắn
13 trang 17 0 0 -
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng cải tùa xại
17 trang 14 0 0 -
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật trồng đậu nành
14 trang 11 0 0 -
112 trang 10 0 0
-
Tài liệu tập huấn khuyến nông 2012: Phân bón và sử dụng phân bón hợp lý
9 trang 9 0 0 -
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật phòng, trị một số bệnh thường gặp ở cá nước ngọt: Phần 2
71 trang 9 0 0 -
Tài liệu tập huấn khuyến nông Kỹ thuật phòng, trị một số bệnh thường gặp ở cá nước ngọt: Phần 1
42 trang 7 0 0