Thời Bắc thuộc lần thứ 3 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm nước Vạn Xuân, bức hàng Hậu Lý Nam Đế, kéo dài cho đến khi Khúc Thừa Dụ tiến vào Đại La, giành quyền cai quản toàn bộ Tĩnh Hải quân năm 905 - thời Đường Ai Đế, ông vua bù nhìn trong tay quyền thần Chu Ôn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thời kì Bắc thuộc lần 3 Thời kì Bắc thuộc lần 3Thời Bắc thuộc lần thứ 3 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm905. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm nướcVạn Xuân, bức hàng Hậu Lý Nam Đế, kéo dài cho đến khi Khúc Thừa Dụ tiếnvào Đại La, giành quyền cai quản toàn bộ Tĩnh Hải quân năm 905 - thời ĐườngAi Đế, ông vua bù nhìn trong tay quyền thần Chu Ôn.Các triều đại Trung Quốc cai trị Việt NamNăm 602, nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân 27 dinh sang đánh nước Vạn Xuân.Vua đời thứ 3 của Vạn Xuân là Lý Phật Tử sợ giặc và đầu hàng, bị bắt sangTrung Quốc. Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 mà trước hết là thuộcTùy. Thời đó, Việt Nam bị xếp làm một châu của Tùy, gọi là châu Giao (ọs ).Trên đường đánh Lâm Ấp quay về, Lưu Phương mắc bệnh chết.Sau Lưu Phương, đến Khâu Hòa được cử làm đại tổng quản. Năm 618, nhàĐường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Khâu Hòa xin thần phục nhàĐường năm 622. Việt Nam thành thuộc địa của Đại Đường.Thời gian Bắc thuộc lần 3 của Việt Nam kéo dài hơn 300 năm.Hành chínhNăm 605, nhà Tùy đổi châu Giao thành quận Giao Chỉ, quận lỵ đặt tại huyệnGiao Chỉ. Đồng thời, nhà Tùy đặt ra Phủ Đô hộ Giao Chỉ để cai trị Việt Nam.Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phongcho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị.Nhà Đường bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập ra, khôi phục lại chế độ các châunhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ. Ngườiđứng đầu cơ quan này gọi tổng quản.Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đôhộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao,châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản.Sau đó, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành Phủ Đô hộ An Nam. Têngọi An Nam trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này. Chức quan đứngđầu Phủ Đô hộ An Nam lúc đầu gọi là kinh lược sứ, sau đổi thành Tiết độ sứ.Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu; đứng đầu mỗi châu là viên quan thứsử. 12 châu này lại được chia thành 59 huyện. Tên gọi 12 châu là: • Giao • Phong • Chi • Ái • L ục • Thang • Võ Nga • Hoan • Phúc Lộc • Trường • Võ An • DiễnNăm 624, Đường Cao Tổ lại đổi các Phủ Đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộAn Nam thành Phủ Đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về têncũ.Năm 757, Đường Túc Tông đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ Đô hộ Trấn Nam.Chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ.Năm 863, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thaythế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lậpPhủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu.Năm 866, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Tĩnh Hải Quân.Dân sốTheo số liệu thống kê của nhà Đường, ở quận Giao Chỉ có 9 huyện 30.056 hộ;quận Cửu Chân có 7 huyện 16.135 hộ; quận Nhật Nam có 8 huyện 9915 hộ,quận Ninh Việt ở phía đông bắc, gồm Khâm châu không rõ số hộ; 3 quận mớichiếm của Lâm Ấp có 4.135 hộ[1].Sự cai trị của Trung QuốcThời TùyVề danh nghĩa, Giao Châu cũng như các quận khác của nhà Tùy, trực tiếp phụthuộc chính quyền trung ương. Nhưng trên thực tế, như lời thú nhận của vuaTùy Văn Đế, châu Giao chỉ là đất ràng buộc lỏng lẻo[1].Cuối thời nhà Tùy, do loạn lạc, các quan cai trị ở Giao châu cũng cát cứ cách lyvới chính quyền trung ương. Khi Tùy Dạng Đế chết, thái thú Khâu Hòa khôngbiết. Khâu Hòa bóc lột nhân dân địa phương rất nặng, nhà cửa giàu có ngang vớivương giả[1].Thái thú Cửu Chân là Lê Ngọc (vợ là người Việt) cùng các con xây thành lũykháng cự nhà Đường mới thay nhà Tùy. Sau Khâu Hòa, tới năm 622, Lê Ngọccùng thái thú Nhật Nam là Lý Giáo cũng quy phục nhà Đường.Thời ĐườngNhà Đường coi An Nam là một trọng trấn và tăng cường bóc lột rất nặng dướinhiều hình thức. Hằng năm các châu quận ở đây phải cống nạp nhiều sản vậtquý (ngà voi, đồi mồi, lông trả, da cá, trầm hương, vàng, bạc...) và sản phẩmthủ công nghiệp (lụa, tơ, sa, the, đồ mây, bạch lạp...).Ngoài chế độ cống nạp, người bản địa phải nộp nhiều loại thuế mới. Có nhiềuloại thuế và chính sử nhà Đường phải thừa nhận rằng các quan lại ở An Nam đãđánh thuế rất nặng[2]. Riêng thuế muối ở Lĩnh Nam hàng năm bằng 40 vạn quantiền. Ngoài thuế muối và gạo, còn phải nộp thuế đay, gai, bông và nhiều thuếngoại suất (thuế đánh 2 lần). Nhà Đường dựa vào tài sản chia làm 3 loại thuế: 1. Thượng hộ nộp 1 thạch 2 đấu 2. Thứ hộ nộp 8 đấu 3. Hạ hộ nộp 6 đấuCác hộ vùng thiểu số nộp 1/2 số quy định trên. Song có những quan lại nhàĐường vẫn bắt người thiểu số nộp toàn bộ số thuế như các hộ ở đồng bằng.Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người Việt, mà cụ chốngthuế điển hình là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến chống lại Lưu Diên Hựu năm 687.Sử nhà Đường ghi nhận không ít các quan lại đô hộ vơ vét của người Việt đểlàm giàu và chạy chức, thăng tiến. Cao Chính Bình phú liễm nặng, Lý Tráctham lam ăn hối lộ, phú thuế bạo ngược, bắt người dân miền núi phải đổi 1con trâu bò chỉ để lấy được 1 đấu muối; Lý Tượng Cổ tham túng, bất kể luậtpháp...[2].Để củng cố sự cai trị, nhà Đường tăng cường xây cất thành trì và quân phòngthủ ở Tống Bình, châu Hoan, châu Ái. Trong phủ thành đô hộ Tống Bình,thường xuyên có 4.200 quân đồn trú. Ở vùng biên giới phía tây bắc như miềnLâm Tây, Lân, Đăng hằng năm có 6.000 quân trấn giữ gọi là quân phòng đông(phòng giữ vào mùa khô) để chống sự xâm lấn của nước Nam Chiếu. Thời gianđầu, nhà Đường chỉ dùng quân trưng tập từ phương bắc sang làm quân phòngđông, nhưng từ thời Đường Trung Tông[3] buộc phải dùng cả quân bản địangười Việt xen lẫn.Những cuộc tấn công của thế lực bên ngoàiSailendra và các cuộc tấn công đường biển vào An Nam - ChampaNgoài các loại thuế, từ cuối thế kỷ 8, người Việt còn bị thiên tai (hạn, lụt) trongnhiều năm và những cuộc xâm lấn, cướp phá của các nước lân ba ...