Thực trạng quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 548.54 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực trạng quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn pISSN: 2588-1191; eISSN: 2615-9708 Tập 130, Số 3A, 2021, Tr. 99–112; DOI: 10.26459/hueunijard.v130i3A.5929 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT NGHĨA TRANG, NGHĨA ĐỊA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH Trần Thị Phượng*, Đặng Thị Minh Chinh, Châu Võ Trung Thông, Nguyễn Bích Ngọc, Hồ Việt Hoàng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa. Từ khóa: đất nghĩa trang, đất nghĩa địa, cộng đồng dân tộc, sử dụng đất, Quảng Bình The current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province Tran Thi Phuong*, Dang Thi Minh Chinh, Chau Vo Trung Thong, Nguyen Bich Ngoc, Ho Viet Hoang University of Agriculture and Forestry, Hue University, 102 Phung Hung St., Hue, Viet Nam Abstract: This research was conducted to assess the current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province. The study carried out consultation with local authorities on cemetery and graveyard land management and use of ethnic communities; there are 160 households from Kinh, Chut and Bru-Van Kieu ethnic communities were interviewed based on a random selection method. The research results show that illegal burial is still happening; land landmark for graveyard areas has not been implemented in almost communes; management and relocation of tombs and * Liên hệ: tranthiphuong@huaf.edu.vn Nhận bài: 17–7–2020; Hoàn thành phản biện: 10–9–2020; Ngày nhận đăng: 11–9–2020 Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 graves mixed in other land use types are still happens. The choice of construction model, tomb area, burial site selection and burial customs are almost similar between the Kinh and the Chut community, but very different from the Bru-Van Kieu community. From the current situation of land management in the district, this study has proposed a number of solutions for managing and using cemetery and graveyard land in accordance with the practical situation of ethnic community in Minh Hoa district. Key words: cemetery land, graveyard, land use, ethnic community, Quang Binh 1 Đặt vấn đề Đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) đang trở thành vấn đề lớn và cần quan tâm của đô thị Việt Nam [3]. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu của người dân tăng cao thì vấn đề lễ nghĩa càng được xem trọng. Chính vì thế, một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập cao đòi hỏi đất sử dụng cho mục đích chôn cất người thân của mình cũng phải xứng tầm, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xây dựng tự phát những ngôi mộ xa hoa, giá trị hàng tỷ đồng ở nhiều địa phương hay trong các công viên nghĩa trang mới hình thành [3]. Trong khi đó, những người có thu nhập thấp, những người nghèo lại chôn thân nhân của mình tại những nghĩa trang, nghĩa địa không phù hợp quy hoạch vì chi phí phù hợp với khả năng chi trả của họ [4]. Từ đó, công tác quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất NTD gặp nhiều khó khăn. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thiện Phong, năm 2010 cả nước có 101.064 ha đất NTD chiếm 0,3% diện tích đất toàn quốc, tăng 4.013 ha so với kỳ kiểm kê năm 2005. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 951 ha đất NTD, thành phố Hà Nội có 2.893 ha đất NTD vào năm 2010 [8]. Năm 2010, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương đã thực hiện nghiên cứu làm rõ hiện trạng và xây dựng quy hoạch sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của tỉnh Hải Dương đến năm 2010. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm quản lý chặt chẽ, có hiệu quả, đồng thời sử dụng tiết kiệm đất và đảm bảo vệ sinh môi trường [2]. Tác giả Vũ Thị Ngọc Hiền đã thực hiện nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, đề xuất các giải pháp quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa hiệu quả, tiết kiệm, bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống và phù hợp với văn minh thời đại [3]. Các nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện ở địa bàn chủ yếu là người Kinh sinh sống, hiện vẫn còn rất thiếu những nghiên cứu ở những địa bàn có cộng đồng người dân tộc thiểu số sinh sống. Huyện Minh Hóa là huyện miền núi vùng cao nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Bình. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số thì đây là nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (hiện có 2.741 hộ, chiếm 20,3% số hộ toàn huyện) [5]. Ở đây, người dân tộc thiểu số chủ yếu là các dân tộc Bru – Vân Kiều và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực trạng quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn pISSN: 2588-1191; eISSN: 2615-9708 Tập 130, Số 3A, 2021, Tr. 99–112; DOI: 10.26459/hueunijard.v130i3A.5929 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT NGHĨA TRANG, NGHĨA ĐỊA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH Trần Thị Phượng*, Đặng Thị Minh Chinh, Châu Võ Trung Thông, Nguyễn Bích Ngọc, Hồ Việt Hoàng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa. Từ khóa: đất nghĩa trang, đất nghĩa địa, cộng đồng dân tộc, sử dụng đất, Quảng Bình The current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province Tran Thi Phuong*, Dang Thi Minh Chinh, Chau Vo Trung Thong, Nguyen Bich Ngoc, Ho Viet Hoang University of Agriculture and Forestry, Hue University, 102 Phung Hung St., Hue, Viet Nam Abstract: This research was conducted to assess the current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province. The study carried out consultation with local authorities on cemetery and graveyard land management and use of ethnic communities; there are 160 households from Kinh, Chut and Bru-Van Kieu ethnic communities were interviewed based on a random selection method. The research results show that illegal burial is still happening; land landmark for graveyard areas has not been implemented in almost communes; management and relocation of tombs and * Liên hệ: tranthiphuong@huaf.edu.vn Nhận bài: 17–7–2020; Hoàn thành phản biện: 10–9–2020; Ngày nhận đăng: 11–9–2020 Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 graves mixed in other land use types are still happens. The choice of construction model, tomb area, burial site selection and burial customs are almost similar between the Kinh and the Chut community, but very different from the Bru-Van Kieu community. From the current situation of land management in the district, this study has proposed a number of solutions for managing and using cemetery and graveyard land in accordance with the practical situation of ethnic community in Minh Hoa district. Key words: cemetery land, graveyard, land use, ethnic community, Quang Binh 1 Đặt vấn đề Đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) đang trở thành vấn đề lớn và cần quan tâm của đô thị Việt Nam [3]. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu của người dân tăng cao thì vấn đề lễ nghĩa càng được xem trọng. Chính vì thế, một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập cao đòi hỏi đất sử dụng cho mục đích chôn cất người thân của mình cũng phải xứng tầm, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xây dựng tự phát những ngôi mộ xa hoa, giá trị hàng tỷ đồng ở nhiều địa phương hay trong các công viên nghĩa trang mới hình thành [3]. Trong khi đó, những người có thu nhập thấp, những người nghèo lại chôn thân nhân của mình tại những nghĩa trang, nghĩa địa không phù hợp quy hoạch vì chi phí phù hợp với khả năng chi trả của họ [4]. Từ đó, công tác quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất NTD gặp nhiều khó khăn. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thiện Phong, năm 2010 cả nước có 101.064 ha đất NTD chiếm 0,3% diện tích đất toàn quốc, tăng 4.013 ha so với kỳ kiểm kê năm 2005. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 951 ha đất NTD, thành phố Hà Nội có 2.893 ha đất NTD vào năm 2010 [8]. Năm 2010, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương đã thực hiện nghiên cứu làm rõ hiện trạng và xây dựng quy hoạch sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của tỉnh Hải Dương đến năm 2010. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm quản lý chặt chẽ, có hiệu quả, đồng thời sử dụng tiết kiệm đất và đảm bảo vệ sinh môi trường [2]. Tác giả Vũ Thị Ngọc Hiền đã thực hiện nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, đề xuất các giải pháp quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa hiệu quả, tiết kiệm, bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống và phù hợp với văn minh thời đại [3]. Các nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện ở địa bàn chủ yếu là người Kinh sinh sống, hiện vẫn còn rất thiếu những nghiên cứu ở những địa bàn có cộng đồng người dân tộc thiểu số sinh sống. Huyện Minh Hóa là huyện miền núi vùng cao nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Bình. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số thì đây là nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (hiện có 2.741 hộ, chiếm 20,3% số hộ toàn huyện) [5]. Ở đây, người dân tộc thiểu số chủ yếu là các dân tộc Bru – Vân Kiều và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đất nghĩa trang Đất nghĩa địa Cộng đồng dân tộc Quản lý sử dụng đất Di dời giải tỏa mồ mả Quy định về hạn mức giao đấtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tìm hiểu một số cách thức xưng hô trong giao tiếp tiếng Mường
7 trang 126 0 0 -
Quy định pháp luật về giá đất đối với việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất tại Việt Nam
14 trang 119 0 0 -
9 trang 34 0 0
-
31 trang 30 0 0
-
Giáo trình Quy hoạch sử dụng đất: Phần 2 - ĐH Lâm Nghiệp
44 trang 29 0 0 -
12 trang 27 0 0
-
Thực trạng sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
13 trang 24 0 0 -
8 trang 24 0 0
-
13 trang 23 0 0
-
Đánh giá thực trạng các loại hình thoái hóa đất tại tỉnh Sơn La
11 trang 22 0 0