Tiểu luận: Thỏa ước Basel, lộ trình và thực trang áp dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam
Số trang: 31
Loại file: pdf
Dung lượng: 338.81 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đề tài hỏa ước Basel, lộ trình và thực trang áp dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam chỉ tóm tắt một số nội dung có liên quan trực tiếp đến khả năng ứng dụng tại Việt Nam bao gồm một số chuẩn mực quy định về cách xác định hệ số rủi ro và tính toán nhu cầu vốn tối thiểu nhằm giúp Ngân hàng đối phó với rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Thỏa ước Basel, lộ trình và thực trang áp dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam Tiểu luậnTHỎA ƯỚC BASEL, LỘ TRÌNH VÀ THỰCTRANG ÁP DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM -1- LỜI MỞ ĐẦUHai năm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, Ủy ban Basel về kiểm soát ngânhàng đã đạt được thỏa thuận nhằm khép các ngân hàng vào những tiêu chuẩn ngặtnghèo hơn. Sau những quyết định năm 1988 và 2007 (gọi là Basel I và Basel II), vănbản mới có tên Thỏa thuận Basel III là sự đút rút những bài học từ cuộc khủng hoảngvừa qua, đồng thời là nền tảng để thiết lập trật tự tài chính thế giới mới.Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoảnđể củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêuchuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ tiền nhiều hơn vàchất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành của Basel II. Các đòn bẩymới và tỷ lệ tính thanh khoản đưa ra nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựatrên rủi ro và các biệ pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảyra khủng hoảng.Đề tài tiến hành nghiên cứu các chuẩn mực và quy định trong hiệp ước Basel để làmcơ sở ứng dụng Basel trong quản trị rủi ro của hệ thống Ngân hàng thương mại ViệtNam. Cùng với các phiên bản Basel I - Basel II và Basel III, đề tài chỉ tóm tắt một sốnội dung có liên quan trực tiếp đến khả năng ứng dụng tại Việt Nam bao gồm một sốchuẩn mực quy định về cách xác định hệ số rủi ro và tính toán nhu cầu vốn tối thiểunhằm giúp Ngân hàng đối phó với rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thịtrường.Sau khi tìm hiểu và giới thiệu ngắn gọn về hiệp ước Basel, đề tài tập trung thực hiệnviệc đánh giá quy mô, hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại ViệtNam trong thời gian qua, những vấn đề cần lưu ý trong công tác quản trị rủi ro của cácNgân hàng, từ đó phân tích những khó khăn mà hệ thống NHTM Việt Nam đã - đangvà có thể sẽ gặp phải khi ứng dụng Basel. -2-I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision- BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương vàcơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìmcách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, cácthành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạtđộng ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg,Nhật, Pháp, Tây Ban Nha,Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lầntrong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toánQuốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàngchuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giámsát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận củaUỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt độngngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn vànhững hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhấttrong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếpchi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy bankhuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắngcan thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạtđộng ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiếncủa Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Mộtmục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốctế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lậpmà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu -3-đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liênquan đến vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nóđược đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệthống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biếnở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel Iđược sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yê ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Thỏa ước Basel, lộ trình và thực trang áp dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam Tiểu luậnTHỎA ƯỚC BASEL, LỘ TRÌNH VÀ THỰCTRANG ÁP DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM -1- LỜI MỞ ĐẦUHai năm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, Ủy ban Basel về kiểm soát ngânhàng đã đạt được thỏa thuận nhằm khép các ngân hàng vào những tiêu chuẩn ngặtnghèo hơn. Sau những quyết định năm 1988 và 2007 (gọi là Basel I và Basel II), vănbản mới có tên Thỏa thuận Basel III là sự đút rút những bài học từ cuộc khủng hoảngvừa qua, đồng thời là nền tảng để thiết lập trật tự tài chính thế giới mới.Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoảnđể củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêuchuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ tiền nhiều hơn vàchất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành của Basel II. Các đòn bẩymới và tỷ lệ tính thanh khoản đưa ra nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựatrên rủi ro và các biệ pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảyra khủng hoảng.Đề tài tiến hành nghiên cứu các chuẩn mực và quy định trong hiệp ước Basel để làmcơ sở ứng dụng Basel trong quản trị rủi ro của hệ thống Ngân hàng thương mại ViệtNam. Cùng với các phiên bản Basel I - Basel II và Basel III, đề tài chỉ tóm tắt một sốnội dung có liên quan trực tiếp đến khả năng ứng dụng tại Việt Nam bao gồm một sốchuẩn mực quy định về cách xác định hệ số rủi ro và tính toán nhu cầu vốn tối thiểunhằm giúp Ngân hàng đối phó với rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thịtrường.Sau khi tìm hiểu và giới thiệu ngắn gọn về hiệp ước Basel, đề tài tập trung thực hiệnviệc đánh giá quy mô, hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại ViệtNam trong thời gian qua, những vấn đề cần lưu ý trong công tác quản trị rủi ro của cácNgân hàng, từ đó phân tích những khó khăn mà hệ thống NHTM Việt Nam đã - đangvà có thể sẽ gặp phải khi ứng dụng Basel. -2-I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision- BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương vàcơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìmcách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, cácthành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạtđộng ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg,Nhật, Pháp, Tây Ban Nha,Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lầntrong một năm. Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toánQuốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàngchuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giámsát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận củaUỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt độngngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn vànhững hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhấttrong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếpchi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy bankhuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắngcan thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạtđộng ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiếncủa Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Mộtmục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốctế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lậpmà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu -3-đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liênquan đến vấn đề này. Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nóđược đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệthống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biếnở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel Iđược sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yê ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Hiệp ước Basel Thỏa ước Basel Tiểu luận tài chính tiền tệ Tiểu luận ngân hàng Ngân hàng thương mại Chính sách tiền tệ Ngân hàng thương mại Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 384 1 0 -
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1: Phần 1 - ĐH Thương mại
194 trang 274 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 270 0 0 -
38 trang 248 0 0
-
Tiểu luận: Các phương pháp định giá
39 trang 243 0 0 -
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 242 1 0 -
7 trang 241 3 0
-
Một số vấn đề về lời nguyền tiền mặt: Phần 2
118 trang 229 0 0 -
Đề cương chi tiết học phần Tiền tệ và ngân hàng (Money and Banking)
4 trang 208 0 0 -
19 trang 184 0 0