Tình hình sở hữu ruộng đất ở Tiền Hải (Thái Bình) nửa đầu thế kỷ XIX
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 125.70 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phải chăng sự phân chia ruộng đất đều nhau cho mỗi suất đinh trong làng như thế phản ảnh sự đóng góp công sức lao động ngang nhau của nhân dân trong quá trình khai hoang. Và để được hưởng quyền lợi ấy phải kể đến quá trình đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân chống lại chính sách khôi phục công điền của triều đình nhà Nguyễn. Chính sự phân chia mang tính bình quân này đã góp phần quy định hình thức tư hữu nhỏ của chế độ tư điền thế nghiệp lúc bấy giờ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình sở hữu ruộng đất ở Tiền Hải (Thái Bình) nửa đầu thế kỷ XIX JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 82-87 TÌNH HÌNH SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TIỀN HẢI (THÁI BÌNH) NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Nguyễn Thị Mỹ Hạnh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội1. Đặt vấn đề Tháng 9 năm 1828, huyện Tiền Hải chính thức được thành lập sau một quátrình khẩn hoang đầy gian khổ của nhân dân ta. Vậy sau khẩn hoang, ruộng đất ởvùng này thuộc về sở hữu công hay tư, là công điền hay tư điền? Và đề nghị củaNguyễn Công Trứ - người có công lãnh đạo công cuộc khẩn hoang này: “Đất đai vỡhoang sau 3 năm thành ruộng đều chiếu theo lệ tư điền mà đánh thuế” có được chấpnhận và thực hiện trong thực tế không? Đó là những vấn đề được các nhà nghiêncứu quan tâm và tìm cách trả lời. Song trên thực tế có không ít những ý kiến khácnhau, thậm chí trái ngược. Điều đó cũng phần nào cho thấy sự phức tạp, tính đadạng trong phương thức phân phối sở hữu ruộng đất nơi đây sau quá trình khaikhẩn.2. Nội dung nghiên cứu Chúng ta có thể tạm chia thành hai luồng ý kiến khác nhau: một bên cho rằngđầu thế kỷ XIX, ở Tiền Hải chỉ tồn tại công điền thổ (khác với Kim Sơn là tư điềnquân cấp); còn một bên thì khẳng định ở Tiền Hải, ngay từ buổi đầu khai khẩn,chế độ tư hữu đã xuất hiện song song với chế độ ruộng công. Đại diện cho luồng ý kiến thứ nhất phải kể đến Văn Tân, Nguyễn Văn Đa,Vũ Huy Phúc. Văn Tân trong Nguyễn Công Trứ và những việc ông làm hồi thế kỷXIX, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 152, năm 1973 đã viết: “Chủ trương của NguyễnCông Trứ là người nào khai phá được bao nhiêu mẫu, sào đều cho nhận làm ruộngtư, bị triều đình bác bỏ, biến thành công điền công thổ như ở huyện Tiền Hải” [1].Hay theo Nguyễn Văn Đa trong Nguyễn Công Trứ, nhà khẩn hoang lỗi lạc của thếkỷ XIX, tạp chí nghiên cứu Kinh tế số 47, năm 1969 thì nhà Nguyễn quy định ruộngđất mới khai khẩn ở Tiền Hải là công điền thổ và ở Kim Sơn là tư điền quân cấp.Và mấy năm sau trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 (182) tháng 9 - 10/1978, vớibài viết Mấy nhận xét sơ bộ về nhân vật lịch sử Nguyễn Công Trứ, Vũ Huy Phúc82 Tình hình sở hữu ruộng đất ở Tiền Hải (Thái Bình) nửa đầu thế kỷ XIXđã đưa ra nhận định rằng: “Toàn bộ số ruộng khẩn hoang được ở Tiền Hải dưới sựtrông nom và cung cấp của nhà nước thông qua Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứđều thuộc ngạch công điền” [2]. Nếu căn cứ theo luồng ý kiến thứ nhất này, rõ rànglà chưa phản ảnh hết được sự phong phú, đa dạng trong thực tế của tình hình sởhữu ruộng đất ở địa phương. Hơn thế, bản thân những ý kiến đó cũng chưa làm nổirõ nội dung giai cấp và đấu tranh giai cấp ẩn giấu đằng sau chế độ sở hữu ruộngđất đang hình thành ngày một phức tạp. Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đặc biệt là dựa trên nguồn tư liệu địa phương(nhất là các văn bia còn sót lại), các nhà nghiên cứu đã dần dần đi đến luồng ýkiến thứ 2: ở Tiền Hải, ngay từ buổi đầu khai khẩn, chế độ tư hữu đã xuất hiệnsong song với chế độ ruộng công; và điều đó không phải ngẫu nhiên mà là sự pháttriển tất yếu của lịch sử chế độ sở hữu ruộng đất cũng như đấu tranh giai cấp thếkỷ XIX. Theo Pierre Gourou trong Les paysansdu del ta Tonkinois, [3;209]: ở Tiền Hảisau khi khẩn xong mỗi người được 1 mẫu tư thổ trạch, 8 sào tư thổ ương, xem làđất thế nghiệp. Nhưng nếu chết không có con thừa kế thì được được giao nộp cholàng để phân chia cho người khác. Đặc biệt, P. Gourou cũng lưu ý rằng: đất thếnghiệp là một “hình thức tư hữu đặc biệt”, không được bán, chỉ được cầm cố thôi.Song việc cấm đem bán chỉ ở đây chỉ có ý nghĩa trên giấy tờ còn trong thực tế thìkhông có gì khác nhau giữa mua bán và cầm cố. Cứ hết hạn cầm đợ 3 năm, ngườita chỉ cần làm lại văn tự và cuối cùng “người dân đinh tự do trước đây đã hoàn toànbiến thành người tá điền của chủ nợ” [3]. Và điều đáng nói là ý kiến của P.Gourouvề sự tồn tại song song của tư điền và công điền là hoàn toàn phù hợp với những tàiliệu phát hiện được ở nhiều làng xã trong quá trình khảo sát điền dã tại Tiền Hải. Trên tấm bia “Đức cơ bi ký” dựng tại đình làng Đức Cơ (nay là xã Đông Cơ,huyện Tiền Hải) vào năm Bảo Đại thứ 15 (1939) đã ghi lại quá trình khai hoang lậplàng và tình hình ruộng đất như sau: “Bấy giờ Nguyễn tướng công vâng mệnh đánhdẹp, ông thấy miền duyên hải Nam Định, Ninh Bình có giải đất phù sa bát ngátngàn trùng, đất đai khá màu mỡ. Ông về kinh làm sớ tâu lên, xin sung chức Doanhđiền sứ, được triều đình ưng thuận, ông thân đến tận các nơi ấy, phỏng theo chế độtỉnh điền thời cổ, phân hoạch cương giới lập thành lý, ấp, trại, giáp. . . định rằng 1người làm nguyên mộ để chiêu dân, được 50 người thì lập làng, 30 người thì lập ấp,đắp đê khẩn ruộng lập xã hiệu. Từ đầu cho phép các vị nguyên mộ, tòng mộ mỗingười được cấp 1 mẫu thổ cư và 9 sào thổ ương làm thành tư điền quân nghiệp đểthưởng công lao” Không những thế, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của phần tư thổ, tư điềntrên trong các gia phả của nhiều dòng họ nơi đây. Điển hình là gia phả họ Trần ởlàng Nguyệt Lũ (nay là xã Tân Tiến, huyện Tiền Hải) hiện do tộc trưởng Nguyễn 83 Nguyễn Thị Mỹ HạnhDuy Trinh giữ hay gia phả họ Nguyễn cùng làng do tộc trưởng Nguyễn Đôn giữ.Dưới đây là một đoạn chép trong gia phả họ Nguyễn thuộc làng Nguyệt Lũ: “Đời thứ 5, cụ Nguyễn Quýnh. Năm Minh Mệnh thứ 9 triều Nguyễn, theoDoanh điền sứ Nguyễn Công Trứ... cùng với ấp trưởng Trần Công Chức... ứng mộtại bản xã. Đội ơn được cấp đất ở và đất gieo mạ 1 mẫu 8 sào tại xứ thổ cư. Cụ làtổ đầu tiên ở ấp mới này vậy”. Đoạn tiếp theo, cuốn gia phả họ Nguyễn còn chép lạirằng: “Đời thứ 6, Cụ Nguyễn Quỳnh, đời vua Minh Mệnh tòng ứng mộ tại bản xã,được hưởng nửa suất, đội ơn được cấp đất ở và đất gieo mạ 7 sào 5 miếng tại xứthổ cư”. Điều ghi trên ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tình hình sở hữu ruộng đất ở Tiền Hải (Thái Bình) nửa đầu thế kỷ XIX JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 82-87 TÌNH HÌNH SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TIỀN HẢI (THÁI BÌNH) NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Nguyễn Thị Mỹ Hạnh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội1. Đặt vấn đề Tháng 9 năm 1828, huyện Tiền Hải chính thức được thành lập sau một quátrình khẩn hoang đầy gian khổ của nhân dân ta. Vậy sau khẩn hoang, ruộng đất ởvùng này thuộc về sở hữu công hay tư, là công điền hay tư điền? Và đề nghị củaNguyễn Công Trứ - người có công lãnh đạo công cuộc khẩn hoang này: “Đất đai vỡhoang sau 3 năm thành ruộng đều chiếu theo lệ tư điền mà đánh thuế” có được chấpnhận và thực hiện trong thực tế không? Đó là những vấn đề được các nhà nghiêncứu quan tâm và tìm cách trả lời. Song trên thực tế có không ít những ý kiến khácnhau, thậm chí trái ngược. Điều đó cũng phần nào cho thấy sự phức tạp, tính đadạng trong phương thức phân phối sở hữu ruộng đất nơi đây sau quá trình khaikhẩn.2. Nội dung nghiên cứu Chúng ta có thể tạm chia thành hai luồng ý kiến khác nhau: một bên cho rằngđầu thế kỷ XIX, ở Tiền Hải chỉ tồn tại công điền thổ (khác với Kim Sơn là tư điềnquân cấp); còn một bên thì khẳng định ở Tiền Hải, ngay từ buổi đầu khai khẩn,chế độ tư hữu đã xuất hiện song song với chế độ ruộng công. Đại diện cho luồng ý kiến thứ nhất phải kể đến Văn Tân, Nguyễn Văn Đa,Vũ Huy Phúc. Văn Tân trong Nguyễn Công Trứ và những việc ông làm hồi thế kỷXIX, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 152, năm 1973 đã viết: “Chủ trương của NguyễnCông Trứ là người nào khai phá được bao nhiêu mẫu, sào đều cho nhận làm ruộngtư, bị triều đình bác bỏ, biến thành công điền công thổ như ở huyện Tiền Hải” [1].Hay theo Nguyễn Văn Đa trong Nguyễn Công Trứ, nhà khẩn hoang lỗi lạc của thếkỷ XIX, tạp chí nghiên cứu Kinh tế số 47, năm 1969 thì nhà Nguyễn quy định ruộngđất mới khai khẩn ở Tiền Hải là công điền thổ và ở Kim Sơn là tư điền quân cấp.Và mấy năm sau trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 (182) tháng 9 - 10/1978, vớibài viết Mấy nhận xét sơ bộ về nhân vật lịch sử Nguyễn Công Trứ, Vũ Huy Phúc82 Tình hình sở hữu ruộng đất ở Tiền Hải (Thái Bình) nửa đầu thế kỷ XIXđã đưa ra nhận định rằng: “Toàn bộ số ruộng khẩn hoang được ở Tiền Hải dưới sựtrông nom và cung cấp của nhà nước thông qua Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứđều thuộc ngạch công điền” [2]. Nếu căn cứ theo luồng ý kiến thứ nhất này, rõ rànglà chưa phản ảnh hết được sự phong phú, đa dạng trong thực tế của tình hình sởhữu ruộng đất ở địa phương. Hơn thế, bản thân những ý kiến đó cũng chưa làm nổirõ nội dung giai cấp và đấu tranh giai cấp ẩn giấu đằng sau chế độ sở hữu ruộngđất đang hình thành ngày một phức tạp. Qua quá trình khảo sát thực tiễn, đặc biệt là dựa trên nguồn tư liệu địa phương(nhất là các văn bia còn sót lại), các nhà nghiên cứu đã dần dần đi đến luồng ýkiến thứ 2: ở Tiền Hải, ngay từ buổi đầu khai khẩn, chế độ tư hữu đã xuất hiệnsong song với chế độ ruộng công; và điều đó không phải ngẫu nhiên mà là sự pháttriển tất yếu của lịch sử chế độ sở hữu ruộng đất cũng như đấu tranh giai cấp thếkỷ XIX. Theo Pierre Gourou trong Les paysansdu del ta Tonkinois, [3;209]: ở Tiền Hảisau khi khẩn xong mỗi người được 1 mẫu tư thổ trạch, 8 sào tư thổ ương, xem làđất thế nghiệp. Nhưng nếu chết không có con thừa kế thì được được giao nộp cholàng để phân chia cho người khác. Đặc biệt, P. Gourou cũng lưu ý rằng: đất thếnghiệp là một “hình thức tư hữu đặc biệt”, không được bán, chỉ được cầm cố thôi.Song việc cấm đem bán chỉ ở đây chỉ có ý nghĩa trên giấy tờ còn trong thực tế thìkhông có gì khác nhau giữa mua bán và cầm cố. Cứ hết hạn cầm đợ 3 năm, ngườita chỉ cần làm lại văn tự và cuối cùng “người dân đinh tự do trước đây đã hoàn toànbiến thành người tá điền của chủ nợ” [3]. Và điều đáng nói là ý kiến của P.Gourouvề sự tồn tại song song của tư điền và công điền là hoàn toàn phù hợp với những tàiliệu phát hiện được ở nhiều làng xã trong quá trình khảo sát điền dã tại Tiền Hải. Trên tấm bia “Đức cơ bi ký” dựng tại đình làng Đức Cơ (nay là xã Đông Cơ,huyện Tiền Hải) vào năm Bảo Đại thứ 15 (1939) đã ghi lại quá trình khai hoang lậplàng và tình hình ruộng đất như sau: “Bấy giờ Nguyễn tướng công vâng mệnh đánhdẹp, ông thấy miền duyên hải Nam Định, Ninh Bình có giải đất phù sa bát ngátngàn trùng, đất đai khá màu mỡ. Ông về kinh làm sớ tâu lên, xin sung chức Doanhđiền sứ, được triều đình ưng thuận, ông thân đến tận các nơi ấy, phỏng theo chế độtỉnh điền thời cổ, phân hoạch cương giới lập thành lý, ấp, trại, giáp. . . định rằng 1người làm nguyên mộ để chiêu dân, được 50 người thì lập làng, 30 người thì lập ấp,đắp đê khẩn ruộng lập xã hiệu. Từ đầu cho phép các vị nguyên mộ, tòng mộ mỗingười được cấp 1 mẫu thổ cư và 9 sào thổ ương làm thành tư điền quân nghiệp đểthưởng công lao” Không những thế, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của phần tư thổ, tư điềntrên trong các gia phả của nhiều dòng họ nơi đây. Điển hình là gia phả họ Trần ởlàng Nguyệt Lũ (nay là xã Tân Tiến, huyện Tiền Hải) hiện do tộc trưởng Nguyễn 83 Nguyễn Thị Mỹ HạnhDuy Trinh giữ hay gia phả họ Nguyễn cùng làng do tộc trưởng Nguyễn Đôn giữ.Dưới đây là một đoạn chép trong gia phả họ Nguyễn thuộc làng Nguyệt Lũ: “Đời thứ 5, cụ Nguyễn Quýnh. Năm Minh Mệnh thứ 9 triều Nguyễn, theoDoanh điền sứ Nguyễn Công Trứ... cùng với ấp trưởng Trần Công Chức... ứng mộtại bản xã. Đội ơn được cấp đất ở và đất gieo mạ 1 mẫu 8 sào tại xứ thổ cư. Cụ làtổ đầu tiên ở ấp mới này vậy”. Đoạn tiếp theo, cuốn gia phả họ Nguyễn còn chép lạirằng: “Đời thứ 6, Cụ Nguyễn Quỳnh, đời vua Minh Mệnh tòng ứng mộ tại bản xã,được hưởng nửa suất, đội ơn được cấp đất ở và đất gieo mạ 7 sào 5 miếng tại xứthổ cư”. Điều ghi trên ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Social science Tình hình sở hữu ruộng đất Sở hữu ruộng đất Phân chia ruộng đất Phương thức phân phối sở hữu ruộng đất Chương thức phân phối sở hữu ruộng đấtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiếp cận đánh giá giáo viên theo quan điểm giảng dạy
8 trang 104 0 0 -
Quan niệm của William James về chân lí
7 trang 35 0 0 -
Ebook Quantitative methods in social science – Part 2
132 trang 31 0 0 -
Ebook Quantitative methods in social science – Part 1
137 trang 30 0 0 -
Tư tưởng về tự do trong tác phẩm 'Trốn thoát tự do' của Erich Fromm
7 trang 27 0 0 -
Văn học đại chúng, văn học đặc tuyển, đặc trưng và tương tác
6 trang 23 0 0 -
Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp tỉnh Sơn La
8 trang 22 0 0 -
Quan niệm nghệ thuật của Pasternak trong tiểu thuyết bác sĩ Zhivago
9 trang 21 0 0 -
John Updike và hành trình xác định bản thể Mỹ
9 trang 21 0 0 -
488 trang 20 0 0