Tham khảo bài viết tổng kết kiến thức thể loại thơ văn 12_1, tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TỔNG KẾT KIẾN THỨC THỂ LOẠI THƠ VĂN 12_1 TỔNG KẾT KIẾN THỨC THỂ LOẠI THƠ VĂN 121. TÂY TIẾN(Quang Dũng)I. Vài nét chung về tác giả và bài thơ:1. Tác giả:Quang Dũng (1921 – 1988) tham gia kháng chiến, vừa làm lính đánhgiặc vừa làm thơ. Một hồn thơ tài hoa, bút pháp lãng mạn. Tập thơtiêu biểu nhất của ông: “Mây đầu ô”, trong đó có bài “Tây Tiến” viếtnăm 1948.2. Hoàn cảnh ra đời:- Tây Tiến là đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụphối hợp với bộ đội Lào, bảo về biên giới Việt - Lào và đánh tiêu haolực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc BộViệt Nam.- Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng,bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá vàcả Sầm Nưa (Lào).- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó cónhiều học sinh, sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong hoàncảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoànhhành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và dũng cảm. Quang Dũngtừng là đại đội trưởng.Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạtđộng ở Lào, trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52.- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơnvị chẳng bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ NhớTây Tiến. Khi in lại tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến.II. Nội dung đọc hiểu:1. Bố cục:- Theo văn bản, bài thơ chia làm 4 đoạn. Ý chính của mỗi đoạn:+ Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiếnvà khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.+ Đoạn 2:Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoanvà cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.+ Đoạn 3:Chân dung của người lính Tây Tiến.+ Đoạn 4:Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.- Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạngcủa nhà thơ. Bài thơ được viét trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũngvề đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền vớikhung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng.Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức,những kỉ niệm được tái hiện lại một cách tự nhiên, kí ức này gọi kíức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nốitiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang Dũng đã làm cho hồiức ấy trở nên sống động và người đọc có cảm tưỏng đang sống cùngvới nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.2. Đoạn thơ: (Sông Mã........thơm nếp xôi)- Ở đoạn thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên miền Tây lần lượt hiệnra qua những khung cảnh của địa bàn hoạt động, những chặngđường hành quân của đoàn quân Tây Tiến. Hình ảnh đoàn quân TâyTiến cũng thấp thoáng hiện lên trên nền cảnh thiên nhiên ấy.- Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, baotrùm lên cả không gian và thời gian:Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơiNỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lênthành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể củanỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốcsâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau:Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây, súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơiKhổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (“thi trung hữuhoạ”). Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranhhoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heohút của núi rừng miền Tây- địa bàn hoạt động của đoàn quân TâyTiến. Hai câu thơ đầu, những từ ngữ giàu giá trị tạo hình khúc khuỷu,thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểmtrở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ“ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộnghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừngchạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên nhữngngọn núi cao dường như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnhtrời. Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gầnnhư thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh người lính tạm dừng chân bênmột dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịtmùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà nhưđang bồng bềnh trôi giữa biên khơi.Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hương đặc biệt.Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽbằng một nét rất mềm mại (câu thơ toàn thanh bằng). Quy luật nàycũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữanhững gam màu nóng, tác giả sử dụng những gam màu lạnh làm dịulại cả khổ thơ.Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiếnlàm gợinhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gầnxa,- Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trởcủa nó gợi nhớ tới câu thơ trong bài Đường Thục khó (Thục đạonan) của Lí Bạch: “Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh” (Thụcđạo chi nan, nan vu thướng thanh thiên).Vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miềnTây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theochiều không gian mà còn được khám phá ở chiều thời gian, luôn làmối đe doạ khủng khiếp đối với con người:Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút QuangDũng, hiên lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưi rừng, sươngnúi, thác gầm, cọp dữ,...Những tên đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, PhaLuông, Mường Hịch , những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câuthơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn, được xoa dịubằng những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợpvới nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vừa đadạng vừa độc đáo của núi rừng miền Tây Tổ quốc.Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi ...