Ung Thư Vú, Buồng Trứng và Prostate
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 96.11 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mutation cuả BRCA1, BRCA2 allele thấy trong ung thư vú, buồng trứng và prostate. Các tb có heterozygous BRCA mutations có thể mất wildtype allele, cho nên không sửa chữa được DNA, và vì thế tạo ra ung thư. Theory hiện tại về carcinogenesis cho rằng việc mất wild type allele (DNAREPAIR DEFECT) phải là một giai đoạn bắt buộc trong tiến trình ung thư. PARPs (PolyAdenosine diphosphate Ribose Polymerases) làmultifunctional enzymes trong việc sửa chữa gẫy single stranded DNA. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ung Thư Vú, Buồng Trứng và Prostate Ung Thư Vú, Buồng Trứng và Prostate Mutation cuả BRCA1, BRCA2 allele thấy trong ung thư vú, buồngtrứng và prostate. Các tb có heterozygous BRCA mutations có thể mấtwildtype allele, cho nên không sửa chữa được DNA, và vì thế tạo ra ung thư.Theory hiện tại về carcinogenesis cho rằng việc mất wild type allele (DNA-REPAIR DEFECT) phải là một giai đoạn bắt buộc trong tiến trình ung thư. PARPs (PolyAdenosine diphosphate Ribose Polymerases) làmultifunctional enzymes trong việc sửa chữa gẫy single stranded DNA. Vìthế lý luận kế tiếp sẽ là tìm cách dùng PARPs để chữa ung thư qua việc sửachưã DNA. Trong New Engl Jnl of Med ra ngày 9 tháng 7, 2009, các tác giả tạiEngland (Royal Marsden/NIH cuả England) và The Netherlands Cancer Instđã cho biết clinical evaluation OLAPARIB, một chất có thể uống được, và làmột PARP. Note riêng cuả NTM: Các tác giả chữa 60 bnhân, và đây chỉ là mộtPhase I study mà thôi. Table 3 trang 128 cho thấy adverse events nhận thấykhi dùng thuốc này. Tuy đây chỉ là một Phase I study, các thuốc này có thể mở một chântrời rất mới trong việc chữa trị ung thư. Trang 126, bảng số 1 cho thấy thuốcnày được dùng cho các loại ung thư: Ovarian (35% số bnhân), vú (15%),colorectal (13%), số còn lại: sarcoma, Prostate, melanoma. Note: các thuốc chữa ung thư (và hầu như tất cả các thuốc mới trongmedicine) đều phải qua 3 giai đoạn: phase I, phase II, phase III studies.Không thể đi vào chi tiết các phases này (xin coi các chapters nói vềchemotherapy agents chẳng hạn). Nhưng một cách thực tiễn, để dễ nhớ khiđọc literature: Phase I : đi tìm side effects và toxicity, Phase II : xem thuốcđó hiệu quả với loại ung thư nào, Phase III: sau khi biết rõ thuốc đó hiệunghiệm đặc thù cho một ung thư nào đó, lúc ấy mới so với một gold standardhiện tại. Thí dụ: có một thuốc A, trong giai đoạn chưã thử cho thú vật(Preclinical trials), thấy có thể giết được ung thư. Lúc đó mới đưa lên cácclinical trials: Clinical trial chia ra Phase I, II, III. Phase I: xem thuốc A liều lượng ra sao, con nguời có thể chịu đ ượckhông, chịu được ở liều như thế nào, side effects là gì? Phase II: sau khi đã tìm được liều lượng và biết được side effects, lúcđó mới đem thuốc A chữa cho tất cả các loại ung thư (vú, phổi, não,sarcoma, colorectal, renal, etc), xem thuốc này diệt được loại ung thư nào. Thí dụ sau phase II, tìm thấy thuốc A diệt đuợc ung thư vú, mà khôngcó hiệu quả trong ung thư phổi, melanoma, sarcoma ...; lúc đó mới đemthuốc A sang phase III: chỉ dùng thuốc A để chữa ung thư vú thử xem sao. Phase III: Đem thuốc A so sánh với một khuôn vàng thước ngọc(gold standard) hiện tại: chẳng hạn so sánh thuốc A với combination cóTaxol trong ung thư vú; rồi theo statistic và các double blind studies, mớicông bố rằng thuốc A khá hơn thuốc cũ, hoặc thất bại (kém hơn thuốc cũ). Nếu khá hơn, toàn thế giới sẽ theo, và thuốc A trở thành một goldstandard mới ... Trên đây nói tóm tắt thế thôi, còn thì việc này được thực hành trongcác fellowships, và các fellows đều đưa bnhân cuả mình vào các clinicaltrials, và theo dõi với các bnhân của những nhóm studies cuả thế giới. Cácdata và kết quả cuả clinical trials đều công bố dựa theo statistics, cho nên bắtbuộc phải rành về statistics in biosciences. Chính vì thế, mới hy vọng cónhiều vị bàn về statistics in medicine. (Không rành về statistics, thì ít nhất không thể evaluate sự hiệu quảcuả việc chữa trị cuả chính mình - và quyết định cuả mình hoá ra chỉ dựavào tình cảm (emotion) chứ không theo hard data). NTM Disclaimer: bài này qúy vị có thể phổ biến tự do, không cần xin phéptác giả (Nguyễn Tài Mai), chỉ cần đề: bài do BS Nguyễn Tài Mai, đăng trêndiễn đàn y sĩ ngày 10 tháng 7 năm 2009 (tôi không giữ lại bản đã viết, chonên nếu có câu hỏi xin kèm bài này để dẫn chứng). Việc chữa bệnh từng bệnh nhân riêng biệt dĩ nhiên hoàn toàn tùythuộc y sĩ điều trị, y sĩ máu, y sĩ ung thư của trường hợp đó. Bs Nguyễn Tài Mai ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ung Thư Vú, Buồng Trứng và Prostate Ung Thư Vú, Buồng Trứng và Prostate Mutation cuả BRCA1, BRCA2 allele thấy trong ung thư vú, buồngtrứng và prostate. Các tb có heterozygous BRCA mutations có thể mấtwildtype allele, cho nên không sửa chữa được DNA, và vì thế tạo ra ung thư.Theory hiện tại về carcinogenesis cho rằng việc mất wild type allele (DNA-REPAIR DEFECT) phải là một giai đoạn bắt buộc trong tiến trình ung thư. PARPs (PolyAdenosine diphosphate Ribose Polymerases) làmultifunctional enzymes trong việc sửa chữa gẫy single stranded DNA. Vìthế lý luận kế tiếp sẽ là tìm cách dùng PARPs để chữa ung thư qua việc sửachưã DNA. Trong New Engl Jnl of Med ra ngày 9 tháng 7, 2009, các tác giả tạiEngland (Royal Marsden/NIH cuả England) và The Netherlands Cancer Instđã cho biết clinical evaluation OLAPARIB, một chất có thể uống được, và làmột PARP. Note riêng cuả NTM: Các tác giả chữa 60 bnhân, và đây chỉ là mộtPhase I study mà thôi. Table 3 trang 128 cho thấy adverse events nhận thấykhi dùng thuốc này. Tuy đây chỉ là một Phase I study, các thuốc này có thể mở một chântrời rất mới trong việc chữa trị ung thư. Trang 126, bảng số 1 cho thấy thuốcnày được dùng cho các loại ung thư: Ovarian (35% số bnhân), vú (15%),colorectal (13%), số còn lại: sarcoma, Prostate, melanoma. Note: các thuốc chữa ung thư (và hầu như tất cả các thuốc mới trongmedicine) đều phải qua 3 giai đoạn: phase I, phase II, phase III studies.Không thể đi vào chi tiết các phases này (xin coi các chapters nói vềchemotherapy agents chẳng hạn). Nhưng một cách thực tiễn, để dễ nhớ khiđọc literature: Phase I : đi tìm side effects và toxicity, Phase II : xem thuốcđó hiệu quả với loại ung thư nào, Phase III: sau khi biết rõ thuốc đó hiệunghiệm đặc thù cho một ung thư nào đó, lúc ấy mới so với một gold standardhiện tại. Thí dụ: có một thuốc A, trong giai đoạn chưã thử cho thú vật(Preclinical trials), thấy có thể giết được ung thư. Lúc đó mới đưa lên cácclinical trials: Clinical trial chia ra Phase I, II, III. Phase I: xem thuốc A liều lượng ra sao, con nguời có thể chịu đ ượckhông, chịu được ở liều như thế nào, side effects là gì? Phase II: sau khi đã tìm được liều lượng và biết được side effects, lúcđó mới đem thuốc A chữa cho tất cả các loại ung thư (vú, phổi, não,sarcoma, colorectal, renal, etc), xem thuốc này diệt được loại ung thư nào. Thí dụ sau phase II, tìm thấy thuốc A diệt đuợc ung thư vú, mà khôngcó hiệu quả trong ung thư phổi, melanoma, sarcoma ...; lúc đó mới đemthuốc A sang phase III: chỉ dùng thuốc A để chữa ung thư vú thử xem sao. Phase III: Đem thuốc A so sánh với một khuôn vàng thước ngọc(gold standard) hiện tại: chẳng hạn so sánh thuốc A với combination cóTaxol trong ung thư vú; rồi theo statistic và các double blind studies, mớicông bố rằng thuốc A khá hơn thuốc cũ, hoặc thất bại (kém hơn thuốc cũ). Nếu khá hơn, toàn thế giới sẽ theo, và thuốc A trở thành một goldstandard mới ... Trên đây nói tóm tắt thế thôi, còn thì việc này được thực hành trongcác fellowships, và các fellows đều đưa bnhân cuả mình vào các clinicaltrials, và theo dõi với các bnhân của những nhóm studies cuả thế giới. Cácdata và kết quả cuả clinical trials đều công bố dựa theo statistics, cho nên bắtbuộc phải rành về statistics in biosciences. Chính vì thế, mới hy vọng cónhiều vị bàn về statistics in medicine. (Không rành về statistics, thì ít nhất không thể evaluate sự hiệu quảcuả việc chữa trị cuả chính mình - và quyết định cuả mình hoá ra chỉ dựavào tình cảm (emotion) chứ không theo hard data). NTM Disclaimer: bài này qúy vị có thể phổ biến tự do, không cần xin phéptác giả (Nguyễn Tài Mai), chỉ cần đề: bài do BS Nguyễn Tài Mai, đăng trêndiễn đàn y sĩ ngày 10 tháng 7 năm 2009 (tôi không giữ lại bản đã viết, chonên nếu có câu hỏi xin kèm bài này để dẫn chứng). Việc chữa bệnh từng bệnh nhân riêng biệt dĩ nhiên hoàn toàn tùythuộc y sĩ điều trị, y sĩ máu, y sĩ ung thư của trường hợp đó. Bs Nguyễn Tài Mai ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học y học phổ thông tài liệu y học y học cho mọi người dinh dưỡng y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
LẬP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC SỨC KHỎE
20 trang 200 0 0 -
Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và can thiệp trẻ có rối loạn phổ tự kỷ: Phần 1
42 trang 166 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 145 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 141 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 121 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 116 0 0 -
4 trang 100 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 97 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 75 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 48 0 0