Án lệ, dù không được xem là một nguồn chính thức, nhưng đóng vai trò to lớn trong việc hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm tại Nhật Bản. Dù không ít tranh cãi, nhưng cách tiếp cận của Tòa án tối cao Nhật Bản đã góp phần mở rộng thêm các biện pháp bảo đảm theo thỏa thuận giữa các bên, qua đó, góp phần hoàn thiện pháp luật và tiếp cận với thông lệ quốc tế. Bài viét phân tích một số án lệ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại Nhật Bản, từ đó, sẽ đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vai trò của án lệ trong việc hoàn thiện pháp luật tại Nhật Bản – góc nhìn từ một số án lệ về giao dịch bảo đảm
VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TẠI NHẬT
BẢN – GÓC NHÌN TỪ MỘT SỐ ÁN LỆ VỀ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
Liên Đăng Phước Hải
ThS., GV Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Án lệ, dù không được xem là một nguồn chính thức, nhưng đóng vai trò to lớn
trong việc hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm tại Nhật Bản.
Dù không ít tranh cãi, nhưng cách tiếp cận của Tòa án tối cao Nhật Bản đã góp phần mở
rộng thêm các biện pháp bảo đảm theo thỏa thuận giữa các bên, qua đó, góp phần hoàn
thiện pháp luật và tiếp cận với thông lệ quốc tế. Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích
một số án lệ về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tại Nhật Bản, từ đó, sẽ đưa ra một số gợi mở
nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Từ khóa: án lệ, bảo đảm nghĩa vụ, chuyển nhượng để bảo đảm, tài sản bảo đảm, quyền
đòi nợ.
1. VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TẠI NHẬT BẢN
Nhật Bản theo hệ thống luật thành văn với nguồn luật chủ yếu là các văn bản quy
phạm pháp luật. Án lệ, mặc dù không phải là một nguồn luật chính thức được ghi nhận
trong văn bản quy phạm pháp luật, nhưng thực tế các phán quyết của Tòa án tối cao Nhật
Bản thường được tòa án cấp dưới tuân theo và được xem là một ràng buộc trên thực tế.
Bởi do văn hóa “không thích kiện tụng”97 nên các tranh chấp thường được giải quyết
bằng các thủ tục phi tố tụng98. Điều này khiến số lượng án lệ ở Nhật Bản có phần ít hơn
so với các quốc gia theo hệ thống pháp luật thông luật. Song, điều đó không đồng nghĩa
là án lệ tại Nhật Bản đóng vai trò mờ nhạt, mà ngược lại, các phán quyết của Tòa án tối
cao được các tòa án cấp dưới tôn trọng và tuân theo như một nguồn pháp luật chính thức.
Trong hoạt động xét xử, thẩm phán không chịu sự ràng buộc của tiền lệ tư pháp.
Về nguyên tắc, thẩm phán tòa án cấp dưới sẽ bình đẳng với thẩm phán Tòa án tối cao,
đương nhiên được xem là có quyền giải thích luật liên quan trong việc đưa ra bản án99.
Thậm chí, thực tế không ít tòa án cấp dưới cũng thường thách thức các tiền lệ của Tòa án
97
Thực tế, vẫn còn nhiều tranh cãi về nguyên nhân phía sau văn hóa không thích kiện tụng này tại Nhật Bản. Có thể
tham khảo thêm: See John Haley (1978), The Myth of the Reluctant Litigant, Journal of Japanese Studies, số 2, tập
4; J. Mark Ramseyer (1988), The Reluctant Litigant Revisited: Rationality and Disputes in Japan, Journal of Japa-
nese Studies, 14 (1); Junjiro Tsubota (1984), Myth and Truth on Non-Litigiousness in Japan, University of Chicago
Law School Record, số 30.
98
Hiroshi Oda (2009), Japanese Law, 3ed, Oxford University Express, tr. 225.
99
Murakami, Bàn về chế định án lệ nhằm áp dụng vào Việt Nam, tham luận tại Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện
công tác phát triển án lệ và lấy ý kiến đối với các dự thảo án lệ tại Thành phố Hồ Chí Minh do Tòa án nhân dân tối
cao và Dự án pháp luật JICA tổ chức tại Thành phố HCM ngày 17/9/2018, tr. 2.
76
tối cao100. Nhiều trường hợp bản án của tòa án cấp dưới khác với tiền lệ xét xử của Tòa
án tối cao, dẫn đến sự thay đổi về mặt quan điểm của Tòa án tối cao sau đó. Dễ hiểu, bởi
do tòa án cấp dưới gần gũi hơn đối với các vấn đề trong cuộc sống và có sự linh hoạt
trong việc xét xử giúp phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống hơn là Tòa án tối cao. Dưới
góc độ luật học, điều này là cơ hội tốt để thoát khỏi các tiền lệ không còn phù hợp của
Tòa án tối cao101. Mặt khác, Hiến pháp Nhật Bản đảm bảo rằng “tất cả các thẩm phán sẽ
độc lập trong việc thực thi lương tâm của họ và chỉ bị ràng buộc bởi hiến pháp này và
pháp luật” (Điều 76). Ngoài ra, thẩm phán sẽ không thể bị miễn nhiệm, trừ khi bị tòa án
tuyên bố là không đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ và họ không thể bị kỷ luật bởi các
cơ quan hành pháp (Điều 78). Như vậy, nếu thẩm phán tại Nhật Bản khi xét xử trước nếu
chỉ dựa trên các quy định pháp luật một cách cứng nhắc, mà không xem xét các vấn đề
khác thì không thể xét xử theo đúng lương tâm của mình. Điều này khiến cho hoạt động
sáng tạo pháp luật của Nhật Bản được đề cao và phát triển bởi các thẩm phán.
Mặc dù vậy, các phán quyết trái với án lệ của Tòa án tối cao thì các thẩm phán có
thể dự liệu được rằng phán quyết của mình có thể bị hủy bỏ theo thủ tục kháng cáo102. Do
đó, dù pháp luật không có quy định về tính ràng buộc của án lệ, nhưng án lệ của Tòa án
tối cao là một xu hướng mạnh mẽ mà các thẩm phán thường tuân theo khi giải quyết một
vụ việc. Cũng chính điều này, mà có nhiều ý kiến cho rằng, đây là “sự ràng buộc về mặt
thực tế” của án lệ tại Nhật Bản103. Một nguyên nhân khác có thể kể đến đó là xuất phát từ
tính chất nghề nghiệp của thẩm phán. Theo đó, thẩm phán tại Nhật Bản được xem là nghề
với nhiệm kỳ 10 năm và việc gia hạn, dù không được bảo đảm, nhưng thường được thực
hiện trên thực tế. Tòa án tối cao có quyền đề cử và luân chuyển các thẩm phán của tòa án
cấp thấp hơn, điều này cũng có thể là một trong những nguyên nhân khiến thẩm phán của
tòa án cấp dưới thường tuân theo các tiền lệ của Tòa án tối cao. Chính vì điều này, mặc
dù không theo học thuyết “stare dicisis”104, nhưng vì lý do công việc mà án lệ của tòa án
còn được áp dụng còn hơn cả các quốc gia nơi mà học thuyết stare dicisis tồn tại105.
2. VAI TRÒ CỦA ÁN LỆ TRONG VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIAO
DỊCH BẢO ĐẢM TẠI NHẬT BẢN VÀ CÁC GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Án lệ thể hiện sự linh hoạt của thẩm phán trong việc sáng tạo ra pháp luật, thông
qua việc đưa ra giải pháp cho một vấn đề pháp lý mới nhằm khắc phục các “lỗ hổng pháp
luật”106. Thực tế cho thấy, các quy định pháp luật mang tính trừu tượng, do vậy, sẽ khó
100
Hiroshi Oda, tlđd, tr.43.
101
Hirosh ...