Danh mục

Y dược của Trung Quốc – Phần 2

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 328.63 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là cha đẻ của châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh, thân thể gồm 12 kinh mạch và nguồn sinh lực là khí lưu thông qua chúng. Nội Kinh còn mô tả 10 kinh mạch nối liền lục phủ ngũ tạng đến da. Trên da có các huyệt vị mà ta có thể dùng kim châm (gọi là châm huyệt) hay đốt ngải cứu. Dụng cụ ban đầu để châm chưa phải bằng kim loại, mà bằng đá, gọi là biếm. Hứa Thận đã giải thích trong Thuyết Văn Giải Tự rằng: «Biếm là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y dược của Trung Quốc – Phần 2 Y dược của Trung Quốc – Phần 2 5. CHÂM CỨU Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là cha đẻ của châm cứu. Trong Hoàng Đế Nội Kinh, thân thể gồm 12 kinh mạch và nguồn sinh lực là khí lưu thông qua chúng. Nội Kinh còn mô tả 10 kinh mạch nối liền lục phủ ngũ tạng đế n da. Trên da có các huyệt vị mà ta có thể dùng kim châm (gọi là châm huyệt) hay đốt ngải cứu. Dụng cụ ban đầu để châm chưa phải bằng kim loại, mà bằng đá, gọi là biếm. Hứa Thận đã giải thích trong Thuyết Văn Giải Tự rằng: «Biếm là dùng đá, châm để trị bệnh.» Nghĩa là ban đầu người ta dùng mảnh đá sắc bén để rạch vỡ những chỗ tụ máu hoặc có mủ. Biếm để trị bệnh Về sau người ta dùng que bằng xương hoặc tre để châm. Kim châm bằng kim loại chỉ phát triển khi người ta nắm vững kỹ thuật dã kim. Người ta cho rằng kim châm bằng kim loại tốt sẽ có hiệu quả tinh tế tác động tốt đến dòng khí và tinh trong thân thể. Phát hiện khảo cổ sớm nhất về kim châm là ở ngôi mộ Tây Hán, khai quật năm 1968 ở Hà Bắc. Trong đó có bốn chiếc kim bằng vàng còn nguyên vẹn và năm chiếc kim bạc bị gẫy. Kim châm được dùng kết hợp với ngải cứu đầu tiên vào đời Hán mặc dù thao tác không hoàn toàn giống như ngày nay. Truyện của thần y Biển Thước cho ta thấy ông đã dùng kim (châm) và đá quý (ngọc thạch) để trị bệnh về máu huyết. Hoàng Đế Nội Kinh, nhất là phần Linh Khu, là y điển bàn nhiều về châm cứu, do Linh Khu ngày xưa cũng có tên là Châm Kinh. Châm và cứu khởi phát từ sự tổng hợp các y thuật ban sơ với những ý tưởng mới mẻ về sinh lý học, mà điều này về sau hưng thịnh thành bộ môn dưỡng sinh. Thần y Biển Thước (Tần Việt Nhân) Nguồn gốc của cứu có thể là do kinh nghiệm của người cổ đại thấy rằng khi ngồi bên bếp lửa, hơi nóng của lửa có thể tiêu trừ một số bệnh. Cũng có thể trong sinh hoạt hàng ngày họ bị phỏng lửa, nhưng bù lại họ tình cờ được khỏi một thứ bệnh nào đó. Có lẽ vì thế mà cách trị bằng hơi nóng đã xuất hiện. Trong ngôi Hán mộ số 3 khai quật ở Mã Vương Đôi (Trường Sa) năm 1974, có bốn văn bản ghi chép về kinh mạch và phương pháp cứu. Chất liệu ban đầu được dùng để cứu vị tất đã là ngải. Người ta đã thử nhiều chất liệu và cây cỏ khác nhau, và cuối cùng nhận thấy ngải cứu có ưu điểm hơn cả. Ngải cất trữ lâu năm lại tốt hơn ngải còn tươi. Những phát hiện khảo cổ gần đây về đời Tây Hán giúp ta khám phá sự thực hành châm cứu với kinh mạch. Hai văn bản chép tay mô tả rằng thân thể có 11 mạch mà tên của các mạch này cũng tương tự như tên các mạch trong lý thuyết cổ điển. Một hình nhân nhỏ bằng gỗ sơn mài màu đen (được chôn trễ lắm là khoảng năm 118 tcn) bên trên có vẽ các mạch màu đỏ. Hình nhân được tạo tác một cách tượng trưng về cấu trúc xương, cơ bắp, và hệ động-tĩnh mạch, nhưng không cho thấy các huyệt châm cứu. Hai văn bản và hình nhân này là những nỗ lực chính thức hoá các ý tưởng về kinh nghiệm và việc làm giảm đau đớn. Trước khi phát hiện được hình nhân gỗ này, người ta đã phát hiện được các hình nhân bằng đồng và giám định niên đại là có từ đời Bắc Tống. Những hình nhân đồng rỗng ruột này thể hiện hệ thống kinh mạch và các huyệt vị, và dùng để dạy y thuật. Hình nhân được phủ một lớp sáp màu vàng, bên trong được đổ nước. Khi học sinh châm kim xuyên qua lớp sáp và xoi đúng vào một huyệt thì nước chảy ra ngoài. Châm cứu hình thành một bộ phận Trung y «cao cấp» cho giới thượng lưu. Châm cứu rất phổ biến trong triều đình đời Đường và là môn học chính thức trong Thái Y Viện đời Tống. Tuy nhiên có lúc các y sư phỉ báng châm cứu là nguy hiểm, là công việc của phụ nữ hay của thầy lang không chuyên. Năm 1822 (niên hiệu Đạo Quang đời Thanh), châm cứu bị cấm dạy trong Thái Y Viện. Và với sự lấn át ngày càng mạnh của Tây y vào đầu thế kỷ XX, sự thực hành châm cứu càng ít đi tuy rằng nó không bao giờ bị triệt tiêu. Suốt chiến dịch đề cao di sản dân tộc vào cuối thập niên 1950 của Mao Trạch Đông, châm cứu được hồi sinh với việc thành lập các cơ sở trị liệu, dưỡng đường, và các trung tâm dạy châm cứu. 6. DƯỠNG SINH Tại Trung Quốc, dưỡng sinh bao gồm các sự thực hành để thân thể khang kiện và tinh thần minh mẫn. Dưỡng sinh cũng liên quan đến Đạo dẫn, vốn là sự luyện tập trị liệu ở mức độ cao hơn. Trong các kinh điển đời Chiến Quốc, thuật ngữ «dưỡng sinh» thường xuất hiện trong các lý luận về nhân tính. Mạnh Tử (372-289 tcn) tin tưởng vào việc nuôi dưỡng mầm thiện trong tâm mỗi người. Đối với ông, trau dồi đức dũng và nhân tức là dưỡng khí với các kỹ thuật hô hấp đúng đắn. Trên những miếng ngọc đời Chiến Quốc đã ghi khắc những mô tả sớm nhất về các phép thực hành tăng cường khí để cho ảnh hưởng của thiên nhiên tác động vào thân thể. Toạ thiền Trong những thế kỷ sau đó, một số thế gia sĩ tộc đã sưu tập các y điển và thể nghiệm những bí pháp nhằm kiện khang cũng như tăng cường tinh và khí. Khi xu hướng này được đề cao cực độ, ...

Tài liệu được xem nhiều: