Y học cổ truyền NAM KINH Part 5
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 142.42 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Y học cổ truyền NAM KINH Part 5NAN 29 Điều 29 Nan viết: “Kỳ kinh (bát mạch) gây bệnh như thế nào ?”. Thực vậy: “Mạch Dương duy ràng buộc với các kinh Dương; Mạch Âm duy ràng buộc với các kinh Âm. Khi mà Âm Dương không còn tự mình ràng buộc lấy nhau nó sẽ làm cho bồn chồn như người thất chí, chao đảo không tự giữ vững lấy mình được”. Âm kiểu mạch gây bệnh thì phía Dương bị lơi lỏng, phía Âm bị co cấp; Dương kiểu mạch gây bệnh thì phía Âm bị lơi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền NAM KINH Part 5Y học cổ truyền NAM KINH Part 5 NAN 29 Điều 29 Nan viết: “Kỳ kinh (bát mạch) gây bệnh như thế nào ?”. Thực vậy: “Mạch Dương duy ràng buộc với các kinh Dương; Mạch Âm duy ràng buộcvới các kinh Âm. Khi mà Âm Dương không còn tự mình ràng buộc lấy nhau nó sẽ làmcho bồn chồn như người thất chí, chao đảo không tự giữ vững lấy mình được”. Âm kiểu mạch gây bệnh thì phía Dương bị lơi lỏng, phía Âm bị co cấp; Dương kiểumạch gây bệnh thì phía Âm bị lơi lỏng, phía Dương bị co cấp. Xung mạch bây bệnh làm cho nghịch khí và lý cấp. Đốc mạch gây bệnh làm cho cột sống cứng mà quyết lãnh. Nhậm mạch gây bệnh làm cho bên trong (thiếu phúc) bị kết tụ. Con trai bị chứng thấtsán, con gái thì bị chứng hà tụ. Đới mạch gây bệnh làm cho bụng bị đầy, thắt lưng bị chơi vơi như đang ngồi giữadòng nước. Dương duy mạch gây bệnh bị chứng hàn nhiệt; Âm duy mạch gây bệnh làm cho Tâmbị thống. Trên là Kỳ kinh bát mạch gây thành bệnh”. NAN 30 Điều 30 Nan viết: “Vinh khí khi vận hành có thường đi theo với vệ khí hay không ?”. Thực vậy: “Kinh nói: con người thọ ở cốc khí. (Thủy) cốc khi nhập vào Vị, sau đó mớitruyền đến ngũ tạng lục phủ. Ngũ tạng lục phủ đều nhận lấy (cốc) khí: phần thanh (củakhí) thành “vinh”, phần trọc thành “vệ”. Vinh khí vận hành trong mạch, vệ khí vận hànhngoài mạch, (tất cả) làm tươi cho toàn thân không ngừng nghỉ. Vận hành đủ 50 chu rồitrở lại đại hội. Thế là Âm Dương cùng quán thông nhau như chiếc vòng ngọc khôngđầu mối. Nhờ đó ta biết được vinh và vệ cùng đi theo nhau”. NAN 31 Điều 31 Nan viết: “Tam tiêu bẩm thụ ở đâu ? Sinh ra từ đâu ? Bắt đầu từ đâu ? Chấmdứt nơi đâu ? Phép trị của nó thường như thế nào ? (Tại nơi nào ?). Ta có thể hiểuđược không ?”. Thực vậy: “Tam tiêu là con đường (vận hành) của thủy cốc, là nơi chung thỉ của khí. Thượng tiêu nằm ở dưới Tâm rồi đi xuống dưới cách ở trên thượng khẩu của Vị. Nóchủ nạp chứ không chủ xuất. “Trị” của nó là vùng Chiên trung, dưới huyệt Ngọc đường1 thốn 6 phân, ngay chỗ lõm vào của giữa 2 đầu vú. Trung tiêu nằm ở Trung hoãn của Vị, không lên, không xuống. Nó chủ về làm hủ (nát)và thục (chín) thủy cốc. Trị của nó nằm ở bên cạnh của rún. Hạ tiêu nằm ngay ở chỗ thượng khẩu của Bàng quang. Nó chủ về phân biệt thanh vàtrọc. Nó chủ xuất mà không chủ nạp, vì nó có nhiệm vụ truyền dẫn (ra ngoài). Trị củanó là ở dưới rún 1 thốn, cho nên gọi nó là Tam tiêu. Phủ của nó ở tại Khí nhai (có bảnviết là xung). NAN 32 Điều 32 Nan viết: “Ngũ tạng đều ngang nhau, nhưng Tâm và Phế lại nằm riêng ởphía trên màn cách, tại sao ?”. Thực vậy: “Tâm thuộc về huyết, Phế thuộc về khí, huyết thuộc vinh, khí thuộc vệ, (cảhai) đều cùng theo nhau để lên xuống, được gọi là vinh vệ, nó vận hành thông suốt cáckinh lạc, mở rộng ra ngoài khắp nơi. Vì thế nên Tâm Phế phải ở trên màn cách”. NAN 33 Điều 33 Nan viết: “Can, (sắc) thanh, tượng là Mộc. Phế (sắc) bạch, tượng Kim. Canđắc thủy thì trầm, Mộc đắc thủy thì phù. Phế đắc thủy thì phù, Kim đắc thủy thì trầm. Ýcủa nó thế nào ?”. Thực vậy: “Can không phải chỉ thuần là Mộc, nó còn là Ất, là giốc, là nhu của Canh,nếu nói 1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương, nếu nói 1 cách hẹphơn thì đó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí “vi Dương” để hút vào cái “viÂm” thì “ý” của nó là “lạc: vui” với Kim, vả lại nó vận hành ở “Âm đạo” nhiều hơn, vì thếnó làm cho Can đắc Thủy thì trầm. Phế không phải chỉ thuần là Kim, nó còn là Tân, là thương, là nhu của Bính, nếu nói1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương, n ếu nói 1 cách hẹp hơn thìđó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí “vi Âm” để kết hôn về với Hỏa thì “ý”của nó là “lạc: vui” với Hỏa, vả lại nó còn vận hành ở Dương đạo nhiều hơn, vì thế nólàm cho Phế đắc Thủy thì phù. Phế “thục: chết” thì trở lại trầm, Can “thục: chết” thì trở lại phù, tại sao ? Cho nên tabiết rằng Tân thì phải quay về với Canh, Ất thì phải quay về với Giáp NAN 34 Điều 34 Nan viết: “Ngũ tạng đều có đủ thanh, sắc, xú, vị, có thể hiểu được không ?”. Thực vậy: “Có thập biến. Đó là: Can, sắc thanh, xú của nó là táo (mùi tanh của thịt), vị toan, thanh hô, dịch khấp. Tâm, sắc xích, xú của nó là tiêu, vị khổ, thanh ngôn, dịch hãn (mồ hôi). Tỳ, sắc hoàng, xú của nó là hương, vị cam, thanh ca, dịch diên (nước bọt). Phế, sắc bạch, xú của nó là tinh (mùi tanh của cá), vị tân, thanh khốc (khóc), dịchnước mũi. Thận, sắc hắc, xú của nó là hủ (mục nát, rữa), vị hàm (mặn, thanh thân (rên rỉ), dịchthóa (nước bọt). Đây là thanh, sắc, xú, vị của ngũ tạng”. “Ngũ tạng có thất thần, mỗi thần đều được tàng giữ ở đâu ?”. Thực vậy: “Tạng là nơi tàng chứa thần khí của con người. Cho nên, Can tàng hồn,Phế ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền NAM KINH Part 5Y học cổ truyền NAM KINH Part 5 NAN 29 Điều 29 Nan viết: “Kỳ kinh (bát mạch) gây bệnh như thế nào ?”. Thực vậy: “Mạch Dương duy ràng buộc với các kinh Dương; Mạch Âm duy ràng buộcvới các kinh Âm. Khi mà Âm Dương không còn tự mình ràng buộc lấy nhau nó sẽ làmcho bồn chồn như người thất chí, chao đảo không tự giữ vững lấy mình được”. Âm kiểu mạch gây bệnh thì phía Dương bị lơi lỏng, phía Âm bị co cấp; Dương kiểumạch gây bệnh thì phía Âm bị lơi lỏng, phía Dương bị co cấp. Xung mạch bây bệnh làm cho nghịch khí và lý cấp. Đốc mạch gây bệnh làm cho cột sống cứng mà quyết lãnh. Nhậm mạch gây bệnh làm cho bên trong (thiếu phúc) bị kết tụ. Con trai bị chứng thấtsán, con gái thì bị chứng hà tụ. Đới mạch gây bệnh làm cho bụng bị đầy, thắt lưng bị chơi vơi như đang ngồi giữadòng nước. Dương duy mạch gây bệnh bị chứng hàn nhiệt; Âm duy mạch gây bệnh làm cho Tâmbị thống. Trên là Kỳ kinh bát mạch gây thành bệnh”. NAN 30 Điều 30 Nan viết: “Vinh khí khi vận hành có thường đi theo với vệ khí hay không ?”. Thực vậy: “Kinh nói: con người thọ ở cốc khí. (Thủy) cốc khi nhập vào Vị, sau đó mớitruyền đến ngũ tạng lục phủ. Ngũ tạng lục phủ đều nhận lấy (cốc) khí: phần thanh (củakhí) thành “vinh”, phần trọc thành “vệ”. Vinh khí vận hành trong mạch, vệ khí vận hànhngoài mạch, (tất cả) làm tươi cho toàn thân không ngừng nghỉ. Vận hành đủ 50 chu rồitrở lại đại hội. Thế là Âm Dương cùng quán thông nhau như chiếc vòng ngọc khôngđầu mối. Nhờ đó ta biết được vinh và vệ cùng đi theo nhau”. NAN 31 Điều 31 Nan viết: “Tam tiêu bẩm thụ ở đâu ? Sinh ra từ đâu ? Bắt đầu từ đâu ? Chấmdứt nơi đâu ? Phép trị của nó thường như thế nào ? (Tại nơi nào ?). Ta có thể hiểuđược không ?”. Thực vậy: “Tam tiêu là con đường (vận hành) của thủy cốc, là nơi chung thỉ của khí. Thượng tiêu nằm ở dưới Tâm rồi đi xuống dưới cách ở trên thượng khẩu của Vị. Nóchủ nạp chứ không chủ xuất. “Trị” của nó là vùng Chiên trung, dưới huyệt Ngọc đường1 thốn 6 phân, ngay chỗ lõm vào của giữa 2 đầu vú. Trung tiêu nằm ở Trung hoãn của Vị, không lên, không xuống. Nó chủ về làm hủ (nát)và thục (chín) thủy cốc. Trị của nó nằm ở bên cạnh của rún. Hạ tiêu nằm ngay ở chỗ thượng khẩu của Bàng quang. Nó chủ về phân biệt thanh vàtrọc. Nó chủ xuất mà không chủ nạp, vì nó có nhiệm vụ truyền dẫn (ra ngoài). Trị củanó là ở dưới rún 1 thốn, cho nên gọi nó là Tam tiêu. Phủ của nó ở tại Khí nhai (có bảnviết là xung). NAN 32 Điều 32 Nan viết: “Ngũ tạng đều ngang nhau, nhưng Tâm và Phế lại nằm riêng ởphía trên màn cách, tại sao ?”. Thực vậy: “Tâm thuộc về huyết, Phế thuộc về khí, huyết thuộc vinh, khí thuộc vệ, (cảhai) đều cùng theo nhau để lên xuống, được gọi là vinh vệ, nó vận hành thông suốt cáckinh lạc, mở rộng ra ngoài khắp nơi. Vì thế nên Tâm Phế phải ở trên màn cách”. NAN 33 Điều 33 Nan viết: “Can, (sắc) thanh, tượng là Mộc. Phế (sắc) bạch, tượng Kim. Canđắc thủy thì trầm, Mộc đắc thủy thì phù. Phế đắc thủy thì phù, Kim đắc thủy thì trầm. Ýcủa nó thế nào ?”. Thực vậy: “Can không phải chỉ thuần là Mộc, nó còn là Ất, là giốc, là nhu của Canh,nếu nói 1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương, nếu nói 1 cách hẹphơn thì đó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí “vi Dương” để hút vào cái “viÂm” thì “ý” của nó là “lạc: vui” với Kim, vả lại nó vận hành ở “Âm đạo” nhiều hơn, vì thếnó làm cho Can đắc Thủy thì trầm. Phế không phải chỉ thuần là Kim, nó còn là Tân, là thương, là nhu của Bính, nếu nói1 cách to rộng hơn thì đó là (quan hệ) của Âm và Dương, n ếu nói 1 cách hẹp hơn thìđó là (quan hệ) của chồng và vợ. Khi nó bỏ cái khí “vi Âm” để kết hôn về với Hỏa thì “ý”của nó là “lạc: vui” với Hỏa, vả lại nó còn vận hành ở Dương đạo nhiều hơn, vì thế nólàm cho Phế đắc Thủy thì phù. Phế “thục: chết” thì trở lại trầm, Can “thục: chết” thì trở lại phù, tại sao ? Cho nên tabiết rằng Tân thì phải quay về với Canh, Ất thì phải quay về với Giáp NAN 34 Điều 34 Nan viết: “Ngũ tạng đều có đủ thanh, sắc, xú, vị, có thể hiểu được không ?”. Thực vậy: “Có thập biến. Đó là: Can, sắc thanh, xú của nó là táo (mùi tanh của thịt), vị toan, thanh hô, dịch khấp. Tâm, sắc xích, xú của nó là tiêu, vị khổ, thanh ngôn, dịch hãn (mồ hôi). Tỳ, sắc hoàng, xú của nó là hương, vị cam, thanh ca, dịch diên (nước bọt). Phế, sắc bạch, xú của nó là tinh (mùi tanh của cá), vị tân, thanh khốc (khóc), dịchnước mũi. Thận, sắc hắc, xú của nó là hủ (mục nát, rữa), vị hàm (mặn, thanh thân (rên rỉ), dịchthóa (nước bọt). Đây là thanh, sắc, xú, vị của ngũ tạng”. “Ngũ tạng có thất thần, mỗi thần đều được tàng giữ ở đâu ?”. Thực vậy: “Tạng là nơi tàng chứa thần khí của con người. Cho nên, Can tàng hồn,Phế ...
Tài liệu liên quan:
-
LẬP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC SỨC KHỎE
20 trang 222 0 0 -
CHẨN ĐOÁN XQUANG GAN VÀ ĐƯỜNG MẬT
11 trang 196 0 0 -
Tài liệu hướng dẫn chẩn đoán và can thiệp trẻ có rối loạn phổ tự kỷ: Phần 1
42 trang 187 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 159 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 126 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
4 trang 109 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0