Danh mục

Các thuốc chữa thiếu máu đắt tiền điều trị ung thư và suy thận

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 105.53 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các dược phẩm đắt tiền có khả năng kích thích sản xuất hồng cầu được dùng phổ biến trong điều trị ung thư và bệnh thận ở các nước tiên tiến. Những thuốc này dù mang lại hàng chục tỷ đô-la cho hãng bào chế nhưng có thể gây hại tới người dùng. Cuối tháng 1/2007, hãng công nghệ sinh học đứng đầu thế giới Amgen của Mỹ đã đưa ra một công bố: thuốc chống thiếu máu aranesp đã làm tăng tỷ lệ tử vong cho một số bệnh nhân ung thư. Hàng triệu người trên thế giới...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các thuốc chữa thiếu máu đắt tiền điều trị ung thư và suy thận Các thuốc chữa thiếu máu đắt tiền điều trị ung thư và suy thận: Có gây hại cho bệnh nhân? Các dược phẩm đắt tiền có khả năng kích thích sản xuất hồng cầuđược dùng phổ biến trong điều trị ung thư và bệnh thận ở các nước tiêntiến. Những thuốc này dù mang lại hàng chục tỷ đô-la cho hãng bào chếnhưng có thể gây hại tới người dùng. Cuối tháng 1/2007, hãng công nghệ sinh học đứng đầu thế giới -Amgen của Mỹ đã đưa ra một công bố: thuốc chống thiếu máu aranesp đãlàm tăng tỷ lệ tử vong cho một số bệnh nhân ung thư. Hàng triệu người trênthế giới đã được chỉ định các thuốc trong nhóm này với các tên khác nhau,phổ biến nhất là epogen, procrit, neorecormon... Doanh thu c ủa cả 3 biệtdược ở Mỹ là khoảng 14 tỷ đô-la/năm. Các sản phẩm đắt tiền này có tácdụng tương tự như erythropoietin, được sản xuất tại thận và có thể dùng đểkích thích sự sinh sản của hồng huyết cầu. Mới đây, tạp chí New England Journal of Medicine đã cảnh báo nguycơ tiềm tàng do bác s ĩ chỉ định các thuốc kể trên quá mạnh tay. Một nghiêncứu lâm sàng cho thấy việc sử dụng procrit với tần số cao đã làm tăng hơn34% số trường hợp tử vong bởi bệnh tim so với những người sử dụng thuốcít hơn. Điều này trái ngược với những dự đoán và mong muốn của bác sĩcũng như hãng bào chế. Trong một thử nghiệm mới nhất với nỗ lực đưa aranesp vào sử dụngcho các bệnh nhân ung thư bị thiếu máu (trước đây thuốc này đã được chophép sử dụng với bệnh nhân bị thiếu máu do hóa trị liệu), đã có 1.000 bệnhnhân tham gia. M ục đích của thử nghiệm là chứng minh aranesp có thể giúplàm giảm tần số của việc bệnh nhân phải truyền máu. Kết quả cho thấy, sốlần cần truyền máu ở bệnh nhân không giảm nhưng tỷ lệ tử vong đã tăng lênrõ rệt ở cuối tuần thứ 16 từ khi sử dụng thuốc. Theo hãng bào chế: khoảng12% aranesp đã được chỉ định và có khả năng làm hại bệnh nhân trongtrường hợp này. Gần đây nhất, một thử nghiệm lâm sàng tại Đan Mạch đã cho thấy tỷlệ tái phát của ung thư đầu và cổ ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc aranesp caohơn hẳn so với bệnh nhân không dùng thuốc (theo Cancer Letter,16/2/2007). Tương tự, trước đó Hãng Roche đã công bố: họ bắt buộc phảidừng lại một thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ung thư phổi, khi các nhànghiên cứu nhận thấy sự tăng vọt tỷ lệ tử vong của những bệnh nhân đ ượcdùng thuốc làm tăng sản hồng cầu. Các khoa học gia đã đặt ra nghi vấn làchính các thuốc nhóm này đã có thể kích thích sự phát triển của các khối u ởnhững bệnh nhân được điều trị. Năm 2003, Hãng bào chế Johnson & Johnson đã bắt buộc phải dừnglại những thử nghiệm lâm sàng, khi họ thấy sự tăng vọt các trường hợp bệnhnhân bị bệnh do huyết khối. Các thử nghiệm này đã được hy vọng là chứngminh việc sử dụng thuốc tăng hồng huyết cầu sẽ dẫn tới kết quả cao hơn chođiều trị bệnh ung thư bằng hóa và xạ trị liệu. Một nghiên cứu rộng lớn và đầy đủ hơn cũng đã được thực hiện ởchâu Âu bởi một nhóm các bác sĩ người Đức và Thụy Sĩ. Mục đích của họ làchứng minh khả năng làm giảm tử vong và sự phát triển của khối u chonhóm bệnh nhân được điều trị kết hợp bằng neorecormon. Tổng số 351 bệnh nhân ở Áo, Pháp, Đức và Thụy Sĩ đã tham gia thửnghiệm: nhóm bệnh nhân bị ung thư được điều trị bằng xạ trị liệu kết hợpvới neorecormon và nhóm bệnh nhân bị ung thư dùng xạ trị liệu và giả dược(placebo). Đúng như mong đợi, 82% bệnh nhân ở nhóm dùng thuốc tăngsinh hồng cầu có được lượng hemoglobin ở mức bình thường và cao hơnbình thường (140-150g/lít), trong khi đó nhóm dùng giả dược chỉ có 15%bệnh nhân đạt được tiêu chuẩn này. Trái với mong đợi của các nhà nghiêncứu, sức khỏe và tiến triển của bệnh ung thư ở nhóm dùng thuốc đã tồi tệhơn so với nhóm không dùng thuốc. Cụ thể: bệnh nhân dùng neorecormon bịtái phát cao hơn 62% và số ca tử vong tăng gấp hơn 3 lần so với nhóm kia.Các trường hợp tử vong không liên quan tới ung thư đã tăng nhiều nhất, đặcbiệt là do các bệnh tim mạch, phù não, tắc động mạch và một số trường hợpphù nghẹt thanh quản. Như vậy, mặc dù làm tăng số lượng hồng cầu, nhưngneorecormon không những không giúp kiềm chế bệnh và tăng tuổi thọ màngược lại đã có thể làm hại bệnh nhân. Những kết quả và công bố trên đây là lời cảnh báo cho các bác sĩ thíchđoán mò trong việc chỉ định thuốc. Vì chúng ta đều biết, trong y học, nhất làtrong thực tế lâm sàng có rất nhiều điều tưởng thế mà không phải thế. Mặcdù không được chấp nhận chính thức, nhưng các thuốc kể trên vẫn được mộtsố bác sĩ chỉ định thường xuyên để điều trị thiếu máu cho bệnh nhân ungthư. Thậm chí, nhiều bệnh nhân đã được chỉ định các thuốc rất đắt tiền nàyđể giảm bớt mệt mỏi. Chúng ta cần chữa bệnh vì mục đích kéo dài cuộcsống và tăng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, chứ không phải để nângchỉ số này, giảm tỷ số kia cho đẹp mắt. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: