Danh mục

Chuyển đổi cây trồng và khác biệt xã hội với sự bùng nổ sản xuất sắn: Nghiên cứu trường hợp ở Sơn La và Đắk Lắk tại Việt Nam

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 170.00 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sắn đã từng là một mặt hàng nông sản chính được sản xuất một cách bùng nổ tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nông hộ nhỏ đã và đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như xói mòn đất, đất mất chất dinh dưỡng, giá cả không ổn định và sâu bệnh hại. Điều này đã đặt ra ba câu hỏi được chúng tôi khám phá trong nghiên cứu này: 1) người nông dân có trải nghiệm khác nhau như thế nào về việc sản xuất sắn? 2) làm thế nào và đến mức độ nào nam giới và phụ nữ nông dân thương lượng với và nhận được thông tin cũng như hỗ trợ từ các bên tham gia chuỗi giá trị? 3) các chuẩn mực và quan hệ về giới tác động như thế nào đến quyết định của hộ gia đình đối với việc sử dụng hiệu quả lao động trong gia đình? Nghiên cứu này nhằm mục đích đóng góp kiến thức về các loại nông sản thương mại có sự bùng nổ về sản xuất đối với các nông hộ nhỏ và xác định sự hỗ trợ thích hợp cho những nhóm người ở vị trí bất lợi xét về khía cạnh xã hội và địa lý.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyển đổi cây trồng và khác biệt xã hội với sự bùng nổ sản xuất sắn: Nghiên cứu trường hợp ở Sơn La và Đắk Lắk tại Việt Nam Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người Chuyển đổi cây trồng và khác biệt xã hội với sự bùng nổ sản xuất sắn: Nghiên cứu trường hợp ở Sơn La và Đắk Lắk tại Việt Nam Nozomi Kawarazuka1, Newby Jonathan2,3 Cơ quan 1 Trung tâm Khoai tây Quốc tế, Hà Nội, Việt Nam 2 Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế, Viêng Chăn, Lào HỘI THẢO VỀ PHÁT TRIỂN TÂY BẮC 3 Đại học Queensland, Brisbane, Qld 4072, Australia Tác giả đại diện n.kawarazuka@cgiar.org Từ khóa Chuyển đổi cây trồng, nông sản thương mại, nông hộ nhỏ, quan hệ về giới, Đông Nam Á Giới thiệu 62 Sắn đã từng là một mặt hàng nông sản chính được sản xuất một cách bùng nổ tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các nông hộ nhỏ đã và đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như xói mòn đất, đất mất chất dinh dưỡng, giá cả không ổn định và sâu bệnh hại. Điều này đã đặt ra ba câu hỏi được chúng tôi khám phá trong nghiên cứu này: 1) người nông dân có trải nghiệm khác nhau như thế nào về việc sản xuất sắn? 2) làm thế nào và đến mức độ nào nam giới và phụ nữ nông dân thương lượng với và nhận được thông tin cũng như hỗ trợ từ các bên tham gia chuỗi giá trị? 3) các chuẩn mực và quan hệ về giới tác động như thế nào đến quyết định của hộ gia đình đối với việc sử dụng hiệu quả lao động trong gia đình? Nghiên cứu này nhằm mục đích đóng góp kiến thức về các loại nông sản thương mại có sự bùng nổ về sản xuất đối với các nông hộ nhỏ và xác định sự hỗ trợ thích hợp cho những nhóm người ở vị trí bất lợi xét về khía cạnh xã hội và địa lý. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu Nghiên cứu này dựa trên các tài liệu hiện tại về sinh thái chính trị và chuyển đổi cây trồng ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là ảnh hưởng của sự bùng nổ sản xuất một số loại cây trồng đối với các nông hộ nhỏ và những khác biệt xã hội kéo theo (Akram-Lodhi, 2005, Hall, 2011; To và cộng sự, 2016, Chủ đề 4: Cộng đồng thịnh vượng cho tất cả mọi người Cramb và cộng sự, 2017). Trong đó, sự thích ứng của các nông hộ nhỏ với thay đổi cây trồng được coi là một quá trình phức tạp gắn với các chuẩn mực và mối quan hệ xã hội về giới (Nightingale, 2006 và 20011; Elmhirst, 2011) và quan hệ xã hội được xem là một lợi thế về quyền lực để tiếp cận các nguồn lực (Ribot và Peluso, 2003; Lyon, 2000). Khảo sát thực địa cho nghiên cứu này bổ sung cho các phương pháp tiêu chuẩn khác được sử dụng trong dự án ACIAR đang diễn ra như thảo luận nhóm tập trung thôn, phỏng vấn những người cung cấp thông tin chính và điều tra hộ gia đình quy mô lớn. Các cuộc phỏng vấn chuyên sâu với 55 nam giới và 55 phụ nữ từ các hộ gia đình khác nhau đã được tiến hành NÚI CƠ HỘI CHO PHÁT TRIỂN trong thời gian 5 tuần tại các thôn bản sản xuất sắn được lựa chọn ở tỉnh Sơn La (Tây Bắc) và Đắk Lắk (Tây Nguyên) của Việt Nam. Các nhóm dân tộc thiểu số được phỏng vấn bao gồm Thái, Xinh Mun, Khơ Mú và Ê Đê. Kết quả Thứ nhất, phản ứng đối với những thách thức đang diễn ra đối với việc trồng sắn có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân tộc và giữa người nghèo và người khá giả. Các hộ có khả năng tiếp cận nhiều hơn với các nguồn lực tài chính đã chuyển đổi sang sản xuất các mặt hàng khác như cà 63 phê, hạt điều và hạt tiêu, hoặc mở rộng quy mô và tăng cường thâm canh sản xuất sắn . Trong khi đó, người nghèo vẫn tiếp tục trồng sắn mặc dù giá cả và năng suất đã giảm làm cho lợi nhuận thu được đạt mức rất nhỏ. Đối với những nông dân này, sắn hấp dẫn hơn so với các loại nông sản thương mại khác, vì đòi hỏi đầu tư ít hơn để sản xuất. Vì vậy họ không đầu tư vào giống mới và phân bón, những yếu tố có thể tối đa hóa lợi nhuận kinh tế mà họ kỳ vọng. Thứ hai, khi cơ hội làm thuê nông nghiệp và việc làm phi nông nghiệp đang gia tăng, lợi ích kinh tế trên mỗi đơn vị lao động là yếu tố quan trọng trong các quyết định của hộ gia đình về sinh kế và đầu tư. Trong quá trình này, các chuẩn mực và quan hệ về giới là trung tâm. Ví dụ, phụ nữ Thái ở Sơn La có trình độ học vấn tốt, nói được tiếng Việt và biết đi xe máy. Tuy nhiên, các chuẩn mực đối với phụ nữ, chẳng hạn như giới hạn trong việc đi lại, khiến họ bị hạn chế trong các hoạt động làm thuê nông nghiệp và việc làm phi nông nghiệp, trong khi đó nam giới có thể tự do đi làm các công việc mùa vụ tại các khu vực lân cận. Trong bối cảnh này, cây sắn là một nguồn thu nhập rất quan trọng, nhưng đầu vào lao động và tài chính lại rất hạn chế. Mặt khác, ở các làng Êđê theo mô ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: