BÀI MỞ ĐẦU
Di truyền học là môn khoa học nghiên cứu về tính di truyền và biến dị của sinh vật. Hay nói cách khác di truyền học nghiên cứu các qui luật truyền đạt thông tin từ thế hệ tổ tiên cho con cháu và những qui luật biến đổi của quá trình truyền đạt đó. Tính di truyền đảm bảo cho sự giống nhau giữa con cái với cha mẹ, giữa anh chị em, giữa các cá thể có quan hệ họ hàng thân thuộc. Các sinh vật đều có tính di truyền, biểu hiện ở chổ là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CƠ SỞ DI TRUYỀN CHỌN GIỐNG ĐỘNG VẬT part 1
PGS.TS NGUYỄN MINH HOÀN
CƠ SỞ DI TRUYỀN
CHỌN
GIỐNG
ĐỘNG
VẬT
HUẾ, 2005
BÀI MỞ ĐẦU
Di truyền học là môn khoa học nghiên cứu về tính di truyền và
biến dị của sinh vật. Hay nói cách khác di truyền học nghiên cứu các qui
luật truyền đạt thông tin từ thế hệ tổ tiên cho con cháu và những qui luật
biến đổi của quá trình truyền đạt đó.
Tính di truyền đảm bảo cho sự giống nhau giữa con cái với cha
mẹ, giữa anh chị em, giữa các cá thể có quan hệ họ hàng thân thuộc. Các
sinh vật đều có tính di truyền, biểu hiện ở chổ là con cái thừa hưởng các
tính trạng của bố mẹ. Có thể coi tính di truyền là đặc tính của bố mẹ
truyền lại cho con cái những tính chất và đặc điểm phát triển của minh, mà
nhờ đó các loài sinh vật bảo tồn được những đặc điểm riêng của mình qua
hàng loạt thế hệ. Chính vì vậy mà khi sinh vật chuyển từ thế hệ này sang
thế hệ khác sự sống vẫn đảm bảo liên tục, ổn định..
Tính di truyền được đảm bảo qua quá trình sinh sản. Trong quá
trình sinh sản hữu tính, nhờ sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và tế bào
sinh dục cái mà thực chất là sự kết hợp vật chất di truyền của bố và mẹ,
mà đã đảm bảo sự kế tục vật chất di truyền giữa các thế hệ.
Với hình thức sinh sản vô tính, cơ thể mới được sinh ra từ những tế
bào soma hay từ những tế bào đặc biệt (bào tử thực vật, các mãnh nhỏ
thủy tức...) Trong hình thức sinh sản vô tính, tính di truyền được đảm bảo
nhờ sự phân chia của các tế bào soma. Tính di truyền vừa đảm bảo cho sự
kế tục các đặc tính của sinh vật qua các thế hệ, vừa đảm bảo cho các cơ
thể sinh vật một hình thức phát triển đặc thù, hình thành nên những tính
trạng và đặc tính nhất định.
Thực ra, trong bất kỳ hình thức sinh sản nào của cơ thể sinh vật,
trong các tế bào soma riêng rẽ hay các tế bào sinh dục, chưa phải đã có sẵn
tất cả các tính trạng và đặc tính của cơ thể trưởng thành, mà các tính trạng
và đặc tính đó của cơ thể được hình thành dần trong quá trình phát triển cá
thể trong những điều kiện môi trường nhất định.
Ở người, động vật có vú, tế bào trứng của mẹ kết hợp với tinh
trùng của cha tạo ra hợp tử, đó là cầu nối giữa hai thế hệ. Hợp tử không
trực tiếp mang các đặc tính của cha mẹ mà chứa chương trình phát triển cá
thể ở dạng bộ gen, được gọi là thông tin di truyền.
Thông tin di truyền được mã hóa ở dạng trình tự thẳng của 4 loại
nucleotide của axit nucleic (DNA và RNA). Đơn vị của thông tin di truyền
là các gen. Mọi tính trạng của sinh vật đều chịu sự chi phối của các gen
tương ứng. Trong khối đa dạng của nhiều tính trạng, các nhà sinh học có
thể tách riêng từng đơn vị riêng lẻ để nghiên cứu, đó là gen-tính trạng.
Thông tin di truyền được hiện thực hóa ở thế hệ sau trong quá trình
phát triển cá thể. Mỗi sinh vật trong quá trình lớn lên đều lặp lại chính xác
các giai đoạn phát triển như của cha mẹ. Con người bắt đầu từ giai đoạn
hợp tử, phôi thai, sinh ra, trưởng thành, già và chết. Bộ máy di truyền chi
phối mọi biểu hiện sống tái tạo các cấu trúc tinh vi, điều hòa việc thực
hiện hàng loạt chuỗi phản ứng hóa học phức tạp, giúp cơ thể phản ứng và
thích nghi với môi trường. Do vậy, truyền đạt các tính trạng đặc trưng của
loài qua nhiều thế hệ chỉ là một mặt của tính di truyền, mặt quan trọng
hơn, nó là cơ sở cho mọi biểu hiện sống đặc trưng ở mỗi sinh vật.
Cơ sở vật chất của tính di truyền đó là tất cả những yếu tố cấu trúc
tế bào có khả năng tái sinh, phân ly, tổ hợp về các tế bào con trong quá
trình phân chia của tế bào cơ thể. Vật chất di truyền xét ở cấp độ tế bào là
nhiễm sắc thể, ở cấp độ phân tử là các gen, trên các phân tử axit nucleic.
Người ta cũng đã xác nhận rằng sự nhân đôi của nhiễm sắc thể cũng như
quá trình phân ly của chúng trong nguyên phân cũng như giảm phân có vai
trò đặc biệt quan trọng đảm bảo kế tục vật chất di truyền ổn định qua các
thế hệ.
Tóm lại, di truyền là đặc tính cơ bản của cơ thể sinh vật đảm bảo
cho sự kế tục vật chất di truyền và chức năng qua các thế hệ. Như vậy đối
tượng nghiên cứu của di truyền học, ngoài việc nghiên cứu tính di truyền
còn nghiên cứu quá trình biến dị tính di truyền của sinh vật.
Biến dị biểu hiện ở sự sai khác giữa các cá thể con cái với cha mẹ
hay với các cá thể khác cùng đàn. Một mặt sự biến đổi của bộ máy thông
tin di truyền dẫn đến các biến dị, mặt khác cũng chính các cơ chế di truyền
tạo sự đa dạng trong giới sinh vật và trong nội bộ đàn, bầy hoặc trong
cùng một gia đình. Tuy nhiên biến dị tuy có số lượng rất lớn và hết sức đa
dạng nhưng xẩy ra trong một khuôn khổ nhất định nên mới xếp các sinh
vật vào những đơn vị phân loại như loài, giống, họ, bộ...
Theo Darwin, di truyền, biến dị và chọn lọc là những nhân tố tiến
hóa. Biến dị tạo sự đa dạng, cung cấp nguyên liệu cho tiến hóa, di truyền
duy trì các đặc tính, còn chọn lọc tự nhiên là ...