Con bò sữa đã được nuôi tại Việt Nam từ đầu những năm 1920. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một số di dân người Aán đã du nhập các giống bò Zebu( Ongle, Sindhi, Sahiwal, Thaparkar,..)
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TINH VÀ ĐỰC GIỐNG BÒ HƯỚNG SỮA TẠI PHÍA NAM
ĐIỀU TRA HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG TINH VÀ ĐỰC GIỐNG BÒ
HƯỚNG SỮA TẠI PHÍA NAM
Đinh Văn Cải, Vương Ngọc Long
1. Đặt vấn đề
Con bò sữa đã được nuôi tại Việt Nam từ đầu những năm 1920. Vào cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20, một số di dân người Aán đã du nhập các giống bò Zebu( Ongle,
Sindhi, Sahiwal, Thaparkar,..) vào miền Nam để làm việc tại các đồn điền , dần dần nó
được sử dụng để khai thác sữa cung cấp cho các gia đình người Pháp. Sau đó người Pháp,
chủ các đồn điền rộng lớn ở miền Nam cũng đã nhập các giống bò Zebu và các giống bò
sữa ( Holstein friesian, Bordelaise, Bretonne, Ayshire) vào nuôi chung quanh khu vực
Sài Gòn và Đà Lạt ( Schiene & Jacotot, 1926). Năm 1958 ,chính phủ Úc cũng tài trợ cho
chương trình nuôi bò Jersey tại Lai Khê ( Bến Cát, Bình Dương). Đến năm 1960, có
khoảng 1000 bò sữa được nuôi tại khu vực chung quanh Sài Gòn :400 bò lai Sind, 300 bò
lai Ongle , 100 bò lai Sahiwal , 100 bò lai HF and 174 bò Jersey thuần tại Bến Cát ( Lưu
Trọng Hiếu ,1962). Năng suất ghi nhận của bò Jersey là 2083 kg lứa đầu và 2400 kg ở
lứa sữa thứ 3. Từ năm 1963 -1968 , một vài hộ chăn nuôi bò sữa cũng nhập bò Holstein
friesian thuần từ Nhật Bản .
Trong khi đó tại Miền Bắc, các con bò Holstein đầu tiên từ Trung Quốc, Cu Ba
cũng được nhập vào và nuôi tại các vùng cao như Mộc Châu, Ba Vì , từ đó tạo nên những
giống bò lai hướng sữa đầu tiên như Hà Việt, Hà Aán...
Từ sau giải phóng, nhiều người Aán độ và Pakistan xin hồi hương nên đàn bò sữa
giảm nhanh chóng. Tuy nhiên từ những năm 1978, Bộ Nông nghiệp và Công Nghiệp
Thực phẩm đã đề ra kế hoạch phát triển nhanh đàn bò sữa trong nước để đáp ứng cho
nhu cầu dựa trên đàn bò lai Sind có tầm vóc lớn hiện có lúc bấy giờ. Tinh bò Holtein
thuần từ trung tâm Moncada và một số nước khác đã được sử dụng đề lai tạo ra các
giống bò sữa lai Hà lan F1. Đàn bò lai Hà Lan có nhiều ưu điểm nổi bật dần dần được sử
dụng như giống bò sản xuất sữa chính tại Tp. HCM và khu vực lân cận.
Từ năm 1990, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Miền Nam được sự giúp đở của
công ty SERSIA (Pháp) lần đầu tiên đã giới thiệu 4 giống bò sữa nguồn gốc từ Pháp (
Holstein, Brune, Pie Noir, Montbeliarde) dưới dạng tinh cọng rạ . Đây cũng là lần đầu
tiên , dạng tinh cọng rạ được sử dụng tại Việt Nam. Dần dần , nhiều cơ quan tổ chức đã
nhập các tinh bò sữa từ nhiều quốc gia khác nhau dưới dạng quà biếu, chương trình hợp
tác kỹ thuật và kinh doanh. Qua những kết quả điều tra gần đây cho thấy , tinh bò sữa đã
được nhập từ hơn 10 quốc gia, đa số là từ những nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát
triển, năng suất đàn bò sữa rất cao , như Canada, Pháp, Mỹ , Nhật, Úc, New Zealand….
Điều này cũng làm phong phú hơn nguồn di truyền về bò sữa trong nước nhưng cũng sẽ
có những ảnh hưởng xấu nếu việc quản lý không được tiến hành chặc chẽ.
Mặt khác, trong những năm gần đây ngành chăn nuôi bò sữa đã và đang phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là khu vực Miền Đông Nam Bộ (thuộc các Tỉnh thành như TP.
HCM, Bình Dương, Long An, Lâm Đồng, Đồng Nai ...). Tổng đàn bò sữa cả nước vào
năm 2001 khoảng 45.000 con, chỉ riêng TP. HCM đã chiếm hơn 35.000 con, trong đó có
11.951 bò cái vắt sữa, hàng năm sản xuất trên 40.000 tấn sữa tươi với giá trị hàng hóa
1
trên 130 tỉ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 15.000 lao động. So với các ngành chăn
nuôi khác như heo, gà, ngành chăn nuôi bò sữa ổn định hơn, do có sự quan tâm của Nhà
nước và việc tiêu thụ sữa được đảm bảo nhờ các Công ty chế biến sữa đặc biệt là Công
ty Sữa Việt Nam – Vinamilk. Hiện nay lợi nhuận trong chăn nuôi bò sữa vào khoảng 7 –
10%, tùy vào quy mô chăn nuôi và quản lý. Chính vì vậy, nhiều địa phương đã xây dựng
những chương trình phát triển bò sữa , nên nhu cầu con giống tăng cao. Nhiều trang trại
chăn nuôi bò nền Lai Sind đã ra đời với mục đích sản xuất con giống F1. Tuy nhiên, tại
một số địa phương có hệ thống gieo tinh nhân tạo phát triển chưa hoàn chỉnh, một số
trang trại sử dụng các bò đực lai Holstein để phối cho các bò cái lai Sind. Bên cạnh đó,
ngay tại TP.HCM cũng có một số hộ sử dụng các bò đực giống để phối trực tiếp cho các
bò cái sữa ( các bò cái gieo tinh khó đậu hoặc các bò tơ). Các bò đực giống này giống
thường chỉ được tuyển chọn thông qua ngoại hình, trọng lượng, không có lý lịch giống
rõ ràng, không biết rõ tỷ lệ máu lai…Điều này sẽ gây những tác hại lâu dài về công tác
quản lý giống.
Để đánh giá được hiện trạng này, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài : “ Điều
tra hiện trạng sử dụng tinh và đực giống hướng sữa tại phía nam”. Đề tài này đã được
thực hiện từ tháng 1/2002 và tiến hành tham khảo các số liệu, sổ giống của các cơ quan
có nhập tinh bò sữa từ năm 1990 đến nay.
2. Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chính của đề tài là đánh giá hiện trạng sử dụng tinh và các bò đực giống
hướng sữa về giống,tình hình quản lý để đề ra các giải pháp thích hợp cho vấn đề quản lý
gieo tinh nhân tạo và sử dụng đực giống tại khu vực các tỉnh phía nam nói riêng và cả
nước nói chung trong thời gian từ năm 1990 đến nay.
3. Yêu cầu
Yêu cầu chung của đề tài :
• Ghi nhận tình hình quản lý , ghi chép về giống, phối giống tại nông hộ chăn nuôi
bò sữa
• Ghi nhận tình hình ghi chép, quản lý tinh của dẫn tinh viên
• Ghi nhận tình hình quản lý nguồn tinh của các đơn vị nhập tinh
• Đánh giá các bò đực giống hướng sữa đang được sử dụng .
4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
4.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành tại địa bàn các tỉnh có chăn nuôi bò sữa tại khu vực phía
nam bao gồm các đối tượng điều tra , khảo sát là các hộ, các trang trại chăn nuôi bò sữa ,
các dẫn tinh viên và một số đơn vị có nhập tinh . Thời gian điều tra từ tháng 1 đến tháng
6 năm 2002. Các số liệu của các dòng tinh nhập vào được khảo cứu từ năm 1990.
4.2. Nội d ...