Lao xương khớp được coi là lao thứ phát, do vi khuẩn lao sau khi qua phổi hoặc hệ thống tiêu hóa sẽ theo đường máu hoặc bạch huyết đến khu trú tại một bộ phận nào đó của hệ thống cơ xương khớp gây bệnh. Bệnh lao xương khớp có thể bị đơn độc hoặc kèm theo lao tại phổi hay tại các cơ quan khác. Nguyên nhân và triệu chứng Lao xương khớp là tình trạng nhiễm khuẩn của hệ thống xương khớp do trực khuẩn lao có tên là Mycobacterium tuberculosis gây ra. Đây là tình trạng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ðiều trị lao xương khớp
Ðiều trị lao xương khớp
Lao xương khớp được coi là lao thứ phát, do vi khuẩn
lao sau khi qua phổi hoặc hệ thống tiêu hóa sẽ theo
đường máu hoặc bạch huyết đến khu trú tại một bộ
phận nào đó của hệ thống cơ xương khớp gây bệnh.
Bệnh lao xương khớp có thể bị đơn độc hoặc kèm theo
lao tại phổi hay tại các cơ quan khác.
Nguyên nhân và triệu chứng
Lao xương khớp là tình trạng nhiễm khuẩn của hệ thống
xương khớp do trực khuẩn lao có tên là Mycobacterium
tuberculosis gây ra. Đây là tình trạng lao ngoài phổi phổ
biến, chiếm khoảng 7% tổng số các thể lao. Lao xương
khớp có thể gặp ở tất cả các lứa tuổi, tất cả các xương khớp
trong cơ thể; trong đó lao cột sống chiếm tỷ lệ cao nhất,
khoảng 60-70% tổng số lao xương khớp, sau đó đến lao
khớp háng (10%), khớp gối (5%)…
Lao cột sống còn gọi là bệnh Pott, là tình trạng viêm đốt
sống - đĩa đệm do lao hay gặp nhất. Biểu hiện toàn thân:
bệnh nhân sốt nhẹ về chiều, vã mồ hôi, gầy sút, da xanh
xao, ăn uống kém. Biểu hiện tại chỗ: thường bệnh nhân đau
cột sống âm ỉ liên tục, đau tăng về đêm. Khi bị lâu có thể
dẫn đến xẹp đốt sống gây gù nhọn. Lao có thể rò mủ ra
ngoài, chất mủ giống như bã đậu. Cũng có khi lao tạo thành
ổ áp-xe lạnh cạnh cột sống. Khi để muộn có thể gặp một số
biến chứng chèn ép thần kinh xung quanh do xẹp đốt sống,
thoát vị đĩa đệm, do áp-xe lạnh, do viêm màng nhện tủy.
Nếu chèn ép thần kinh ở vùng cột sống thắt lưng gây yếu
liệt hai chân, rối loạn cảm giác vùng hậu môn sinh dục, đại
tiểu tiện không tự chủ. Nếu chèn ép ở cột sống cổ có thể
gây liệt tứ chi. Chèn ép vùng ngực gây đau thần kinh liên
sườn, rối loạn cảm giác, yếu liệt hai chân... Trường hợp lao
cột sống có áp-xe lạnh, khối áp-xe có thể vỡ vào trung thất
gây hội chứng trung thất, hoặc vỡ vào màng tim, màng phổi
gây chèn ép tim, phổi cấp dẫn đến suy hô hấp, trụy tim
mạch. Nếu áp-xe vỡ vào cơ thắt lưng chậu gây viêm cơ thắt
lưng chậu.
Lao khớp ngoại biên hay gặp là lao khớp háng, khớp gối và
một số khớp khác ít gặp hơn như khuỷu tay, cổ tay, cổ
chân… Biểu hiện tại chỗ là tình trạng viêm khớp: sưng,
nóng, đỏ đau tại chỗ thường ở một khớp đơn độc; khớp bị
tổn thương hạn chế vận động, có thể có lỗ rò ra chất hoại tử
bã đậu hay mảnh xương chết. Lâu ngày cơ quanh khớp
viêm bị teo, hạn chế vận động. Biểu hiện toàn thân của lao
khớp ngoại biên cũng tương tự như lao cột sống. Cần lưu ý
hiện nay lao nói chung và lao xương khớp nói riêng thường
phối hợp với các bệnh suy giảm miễn dịch, nhiễm HIV, đái
tháo đường…
Xét nghiệm tìm vi khuẩn lao.
Vấn đề điều trị
Điều trị lao xương khớp bao gồm điều trị cơ bản tức điều
trị nguyên nhân bệnh và điều trị phối hợp.
Điều trị cơ bản, tức là dùng thuốc chống lao điều trị nguyên
nhân theo các nguyên tắc sau: phối hợp các thuốc chống lao
với ít nhất 3 loại thuốc trong giai đoạn tấn công và ít nhất 2
loại trong giai đoạn duy trì. Dùng thuốc đúng liều: liều thấp
không hiệu quả, dễ tạo vi khuẩn kháng thuốc, ngược lại liều
cao dễ gây tai biến. Dùng thuốc đều đặn đặn để đạt sự hấp
thu thuốc tối đa. Dùng thuốc đủ thời gian, theo 2 giai đoạn:
tấn công từ 2-3 tháng và duy trì từ 4-6 tháng. Cần theo dõi
quản lý bệnh theo nguyên tắc DOST (Directly Observed
Treatment, Short course) tức là điều trị phác đồ ngắn ngày
có theo dõi, kiểm soát trực tiếp việc tuân thủ điều trị của
bệnh nhân. Cần thường xuyên kiểm tra tình trạng toàn thân,
tại chỗ, tiến triển của bệnh cũng như các tai biến có thể xảy
ra khi dùng thuốc.
Các thuốc chống lao thường dùng và liều lượng thuốc khi
dùng hàng ngày là: Streptomycin (S), Isoniazid (H),
Rifampicin (R), Pyrazynamid (Z), Ethambutol (E). Trong
trường hợp dùng phác đồ 3 lần một tuần thì liều lượng có
sự thay đổi, thường là cao hơn liều hằng ngày.
Các phác đồ chuẩn: đối với lao xương khớp mới phát hiện:
dùng phác đồ 2 S(E) HRZ/6HE hoặc 2S(E)RHZ/4RH. Phác
đồ 2 S(E) HRZ/6HE có nghĩa là trong 2 tháng đầu dùng 4
loại kháng sinh phối hợp: streptomycin hoặc ethambutol,
isoniazid, rifampicin, pyrazynamid; 4 tháng sau dùng hai
loại thuốc là isoniazid và ethambutol hằng ngày. Phác đồ
này chỉ áp dụng khi kiểm soát trực tiếp được bệnh nhân ở
cả giai đoạn duy trì.
Với lao xương khớp tái phát, hoặc thất bại sau phác đồ trên,
hoặc điều trị lại sau bỏ thuốc hoặc với thể lao nặng thì áp
dụng phác đồ: 2SHRZE/1HRZE/5H3R3E3, có nghĩa là
trong 2 tháng đầu dùng 5 loại thuốc phối hợp, tháng thứ ba
dùng 4 loại thuốc, 5 tháng tiếp theo dùng 3 loại thuốc mỗi
tuần 3 ngày.
Một số trường hợp lao xương khớp đặc biệt như lao ở trẻ
em, người già, phụ nữ có thai hay cho con bú, người suy
gan thận cần đặc biệt chú ý và có những hướng dẫn điều trị,
theo dõi riêng.
Khi sử dụng thuốc chống lao kéo dài cần đặc biệt chú ý đến
các tác dụng phụ của thuốc trên đường tiêu hóa (buồn nôn,
nôn, đau bụng), đau khớp, rối loạn về thần kinh ngoại biên
(tê bì, bỏng rát ở chân), mẩn ngứa phát ban… Trường hợp
nặng có thể có ù tai, chóng mặt hay điếc do dùng
streptomycin; xuất huyết dưới da, thiếu máu huyết tán do
d ...