Danh mục

Những tiến bộ về thuốc trong điều trị viêm kết mạc dị ứng

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 104.30 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để đương đầu với bệnh viêm kết mạc dị ứng chúng ta đã có các thuốc chống giải phóng hạt từ dưỡng bào. Nhóm này từ lâu đã được biết đến như một công cụ hữu hiệu duy nhất bên cạnh nhóm corticoid. Việc đưa vào các sản phẩm kháng histamin H1 nhỏ mắt đã đưa việc điều trị viêm kết mạc dị ứng tiến thêm một bước dài. Nhờ vậy mà sự cần thiết phải dùng corticoid, liều dùng và việc dùng nhắc lại đã được giảm thiểu. Nếu xét về góc độ điều trị học thì việc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Những tiến bộ về thuốc trong điều trị viêm kết mạc dị ứng Những tiến bộ về thuốc trong điều trị viêm kết mạc dị ứng Để đương đầu với bệnh viêm kết mạc dị ứng chúng ta đã có cácthuốc chống giải phóng hạt từ dưỡng bào. Nhóm này từ lâu đã được biếtđến như một công cụ hữu hiệu duy nhất bên cạnh nhóm corticoid. Việcđưa vào các sản phẩm kháng histamin H1 nhỏ mắt đã đưa việc điều trịviêm kết mạc dị ứng tiến thêm một bước dài. Nhờ vậy mà sự cần thiếtphải dùng corticoid, liều dùng và việc dùng nhắc lại đã được giảm thiểu. Nếu xét về góc độ điều trị học thì việc dùng nhóm chống giải phónghạt từ dưỡng bào có vẻ thiên về tác dụng phòng ngừa còn nhóm khánghistamin H1 lại thiên về tác dụng giảm triệu chứng nhanh và mạnh trong cơncấp. Các thuốc mới ra lò được quảng cáo là có tác dụng kép, mang cả haithuộc tính kháng histamin và chống giải phóng hạt. Một vài loại hơn thế còncó cả tác dụng chống viêm. Chúng đem lại sự giản tiện khi kê đơn, đượcdung nạp tốt hơn và có hiệu quả hơn. Cần nhấn mạnh là với tất cả các vũ khí hiện có thì bệnh viêm kết mạcdị ứng (thể viêm kết mạc mùa xuân và thể viêm quanh năm) đã được kiểmsoát có hiệu quả. Những thuốc mới còn đang trong quá trình thử nghiệm vàđược dùng cho cả các chuyên khoa khác ngoài chuyên ngành nhãn khoa. Mỗi dị nguyên lại thúc đẩy một phản ứng viêm dị ứng và hình thànhmột loại kháng thể tương ứng- IgE đặc hiệu. Thuốc omalizumab là một loạikháng thể kháng Ig E đơn dòng, được đưa lần đầu vào thị trường để điều trịhen phế quản. Nhiều nghiên cứu khác còn chứng tỏ thuốc này có tác dụngtốt trong viêm mũi mùa. Thuốc được dùng qua đường tiêm dưới da liên tụctrong 2-4 tuần. Giá cả của thuốc còn rất đắt (từ 450-2.000 euro cho một mùađiều trị). Ngoài ra, người ta còn một băn khoăn nữa về tác dụng phụ sinhung thư của thuốc. Xem lại việc hình thành kháng thể, người ta thấy dưỡng bào khôngchỉ sản xuất ra histamin mà còn là các chất trung gian hóa học khác nhưleucotrienes và PAF (Platelet Activating Factor) - chất có tác dụng giãnmạch, thúc đẩy quá trình viêm đặc trưng gọi là pha dị ứng chậm. Montelukast (singulair) là một chế phẩm kháng lại thụ thểleucotrienes, được chỉ định trong bệnh hen suyễn. Một nghiên cứu mới đâycho thấy hiệu quả đáng lưu ý của phân tử này trong điều trị viêm kết giácmạc mùa xuân thể nặng: 10 bệnh nhân bị bệnh này được điều trị với liều 5-10mg trong 15 ngày đường uống. Kết quả là 6/10 bệnh nhân đáp ứng rất tốtvới điều trị và duy trì được hiệu quả thêm 15 ngày nữa sau khi ngừng thuốc. Apafant là thuốc tranh chấp với PAF còn đang được nghiên cứu. Dướidạng tra nhỏ dùng trên lợn, cho thấy tác dụng tốt đối với tất cả các triệuchứng, ức chế giải phóng hạt từ bạch cầu ái toan. Điều trị bằng thuốc này tỏra thích hợp với các thể dị ứng thuộc pha chậm Có rất nhiều phân tử mang tính chất hướng hóa cho các tế bào thamgia vào quá trình viêm dị ứng. Trong đó bạch cầu ái toan là thủ phạm chínhgây nên các phản ứng dị ứng nặng tại mắt. Các thuốc sau đây can thiệp vàokhâu bệnh lý này. Các chemokines là các chất hóa học của bạch cầu, giải phóng ra trongquá trình viêm. Eotaxine là một trong các chemokines của bạch cầu đa nhânái toan, nó gắn vào các thụ thể CCR3. Việc tranh chấp với eotaxine trên thụthể CCR3 mở ra một hướng mới trong quá trình điều trị. Trên nghiên cứudạng in vitro thuốc có tác dụng trung hòa các chất hướng hóa trong nướcmắt, giảm đáng kể bạch cầu ái toan (loại bạch cầu có lẽ là thủ phạm gây loétgiác mạc) trên bề mặt ổ loét giác mạc. Chúng có tác dụng tốt cho cả hai loạidị ứng sớm và chậm. Thuốc còn được dùng cho cả bệnh nhân viêm mũi.Interleukin I (IL1) là một sản phẩm mang tính hướng hóa và gây ngưng kếtphân tử, gây tập trung và hoạt hóa các đại thực bào, tăng tính xuyên mạchcủa các lympho bào. Tìm cách bất hoạt các interleukin bởi một chất tranhchấp thụ thể loại IL1 khi dùng trên chuột thấy các triệu chứng lâm sàng giảmnhanh, giảm tính xuyên mạch của bạch cầu đa nhân ái toan và dưỡng bào,giảm nồng độ của nhiều loại chemokines. Người ta còn thấy vai trò chính của dưỡng bào và lympho T, nhóm trợgiúp trong các phản ứng dị ứng nặng tại mắt. Điều này giải thích tại sao cácthuốc ức chế miễn dịch như cyclosporin và tacrolimus lại được dùng trongviêm dị ứng. Tacrolimus dạng nhỏ giọt có tác dụng ngang corticoid. Dungdịch cyclosporin 2% được cho là có thể thay thế corticoid trong rất nhiềunghiên cứu. Nếu được pha chế trong khoa dược bệnh viện, thuốc sẽ rất hiệuquả cho các viêm kết mạc mùa xuân thể nặng, giảm thiểu được việc dùngcorticoid dạng nhỏ. Trong viêm kết mạc dạng dị ứng (atopy) dạng dùngthích hợp là cyclosporin 0,05% (restasis). Trên một nghiên cứu tình nguyện,người ta thấy thuốc có hiệu quả ngoạn mục khi có viêm giác mạc chấmnông đi kèm với viêm kết mạc dị ứng. Độ dung nạp được coi là lý tưởng.Tacrolim ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: