Danh mục

Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển Việt Nam

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 205.95 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện các quy hoạch khác nhau phục vụ hoạt động bảo tồn ĐDSH biển, tuy nhiên, đến nay vẫn còn thiếu “Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển”. Bài viết giới thiệu một số nỗ lực liên quan đến quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển ở Việt Nam và kiến nghị một số cách tiếp cận để hoàn thiện quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển Việt NamQuy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học biển việt nam PGS. TS Nguyễn Chu Hồi1 Ngày 13/11/2008, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), theo đó, Chương 2 đề cập đến “Quy hoạch bảo tồn ĐDSH” và yêu cầu thực hiện ở 2 cấp - tổng thể cấp quốc gia và cấp tỉnh. Luật Thủy sản (2003), Luật Biển Việt Nam (2012), Luật BVMT (2014), và Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (2015) nhấn mạnh đến phát triển kinh tế biển bền vững và bảo tồn ĐDSH biển. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (2007), Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh (2012) và Kế hoạch hành động quốc gia (2014), đang được triển khai trên cả nước, đã nhấn mạnh đến “Vốn tự nhiên”, bao gồm vốn tự nhiên biển. Thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện các quy hoạch khác nhau phục vụ hoạt động bảo tồn ĐDSH biển, tuy nhiên, đến nay vẫn còn thiếu “Quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển”. Bài viết giới thiệu một số nỗ lực liên quan đến quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển ở Việt Nam và kiến nghị một số cách tiếp cận để hoàn thiện quy hoạch tổng thể bảo tồn ĐDSH biển. 1. Nhu cầu quy hoạch tổng thể bảo tồn biển dâng. Có 3 đặc tính làm cho các giá trị dịch ĐDSH biển Việt Nam vụ của các HST biển - ven biển có tầm quan trọng Trong vùng biển Việt Nam đã phát hiện được đặc biệt: Tính không thay thế (khi bị tổn thất); Tính hơn 11.000 loài sinh vật, trong đó có khoảng không thể phục hồi nguyên trạng (khi bị phá hủy) 2.038 loài cá và gần 1.300 loài động thực vật trên và Nguy cơ cao (tổn thất của HST tiềm tàng mối các đảo. Tổng số loài nói trên còn thấp hơn số nguy đối với sự phồn vinh của con người). Do đó, lượng thực tế vì công tác điều tra - nghiên cứu các HST này là “Cơ sở hạ tầng tự nhiên” trong bảo về ĐDSH biển chưa được tiến hành định kỳ, đặc vệ bờ biển, bảo đảm an sinh xã hội của người dân địa biệt đối với các đảo nhỏ. Võ Sĩ Tuấn (2014) cho phương ven biển khỏi các tác động của thiên tai, kể rằng, vùng biển Việt Nam có tính đa dạng loài cả sóng thần. san hô cao hơn so với những ghi nhận trước đây: Tiềm năng sinh vật biển, ven biển và hải đảo đã 454 loài so với 350 và 397 loài do 2 học giả nước tạo ra các giá trị bảo tồn biển cao và cung cấp tiền ngoài công bố, trong đó, ở vùng biển Tây vịnh đề quan trọng cho phát triển ngành thủy sản, nghề Bắc bộ có 176 loài, miền Trung (252), Hoàng Sa cá giải trí và du lịch biển - ven biển, bao gồm du lịch (201), miền Nam (406), Trường Sa (333) và Tây lặn, cũng như một nền kinh tế xanh dựa vào biển ở Nam bộ (251). nước ta. Ngoài ra, các HST biển và kinh tế biển đang Trong số hơn 20 kiểu, loại hệ sinh thái (HST) là chỗ dựa sinh kế cho gần 20 triệu người dân sống biển - ven biển, các HST rạn san hô (RSH), rừng trong 125 huyện ven biển và 14 huyện đảo ở nước ta. ngập mặn (RNM), thảm cỏ biển (TCB), đầm phá Mặc dù có tiềm năng và lợi thế, nhưng ĐDSH và vịnh kín, bãi triều lầy là những nơi cư trú, bãi biển, đảo và vùng ven biển nước ta đang phải đối mặt đẻ và ươm nuôi ấu trùng, nơi cung cấp nguồn với những đe dọa của chính các hoạt động phát triển giống để duy trì và phát triển bền vững ngành kinh tế - xã hội (KT-XH) và thiên tai, như: Chuyển thủy sản Việt Nam. Tuy nhiên, chúng dễ bị tổn đổi mục đích sử dụng đất vùng nước lợ ven biển và thương bởi các hoạt động của con người và thiên mặt nước biển ven bờ thiếu cơ sở khoa học; Khai tai, đặc biệt là biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước thác quá mức nguồn lợi thủy sản nước lợ và mặn, Đại học Quốc gia Hà Nội 18 Chuyên đề số I, tháng 3 năm 2016 TRAO ĐỔI - THẢO LUẬNcũng như các giá trị tài nguyên sinh vật biển, đảovà vùng ven biển; Du nhập các loài sinh vật biểnngoại lai xâm hại (được biết đến ít hơn trên đấtliền); Ô nhiễm và suy thóai môi trường biển, đảovà vùng ven biển; BĐKH và biến đổi đại dương(nước biển dâng, axít hóa nước biển, thiếu ôxy...);Sức ép từ gia tăng dân số và các hoạt động pháttriển KT-XH ở các vùng biển, ven biển và trêncác đảo; Mức tiêu thụ tài nguyên biển-ven biểnngày càng tăng; Quản lý ĐDSH biển - ven biểncòn nhiều bất cập. Đặc biệt, theo thông báo của E. D. Gomez(2015) tính đến cuối tháng 7/2015, Trung Quốcđã san lấp “khai phá” mở rộng trên 1.200 ha “đảonhân tạo” và phá hủy hàng nghìn ha RSH để lấylàm vật liệu tôn tạo các “đảo nhân tạo” như vậy ▲ĐDSH biển bị đe dọa bởi do các hoạt động của con ngườiở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Do vậy, và thiên taigây thiệt hại nghiêm trọng cho các quốc gia venbiển Đông, bao gồm cả Trung Quốc, với số tiềnước tính khoảng 400 triệu USD/năm. Nếu Trung ĐDSH biển ở Việt NamQuốc không dừng hoạt động khai phá và bồi đắp Bảo tồn biển, vùng ven biển và các HST cung cấpcác bãi cạn thì thiệt hại tiếp tục tăng và sẽ “cắt “cơ sở tài nguyên” cho phát triển bền vững kinh tếđứt” mối liên kết sinh thái giữa quần đảo này với biển nói chung và các ngành kinh tế “dựa vào bảophần còn lại của biển Đông. Trữ lượng hải sản tồn”, trước hết là nghề cá và du lịch biển. Đây là haikhu vực quần đảo Trường Sa và phía tây biển lĩnh vực kinh tế gắn với người dân ven biển và trênĐông giảm khoảng 16% so với trước năm ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: