Danh mục

SCANNER HAY IRM

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 91.25 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Scanner và IRM có một số điểm chung quan trọng. Chúng cũng có những khác nhau cơ bản là nguồn gốc của các chỉ định đặc hiệu tùy theo tuổi của bệnh nhân, tùy vùng cơ thể học được thăm dò hay bệnh lý được tìm kiếm. Trong cả hai trường hợp, bệnh nhân được đặt trong một tunnel, nhưng tunnel của IRM dài hơn nhiều, có thể gây nên khó chịu nơi những bệnh nhân bị chứng claustrophobie. Thời gian thăm khám đối với IRM (khoảng 30 phút) dài hơn so với scanner (khoảng 5 đến 10 phút)....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SCANNER HAY IRM SCANNER HAY IRMScanner và IRM có một số điểm chung quan trọng. Chúng cũng có nhữngkhác nhau cơ bản là nguồn gốc của các chỉ định đặc hiệu tùy theo tuổi củabệnh nhân, tùy vùng cơ thể học được thăm dò hay bệnh lý được tìm kiếm.Trong cả hai trường hợp, bệnh nhân được đặt trong một tunnel, nhưng tunnelcủa IRM dài hơn nhiều, có thể gây nên khó chịu nơi những bệnh nhân bịchứng claustrophobie. Thời gian thăm khám đối với IRM (khoảng 30 phút)dài hơn so với scanner (khoảng 5 đến 10 phút). Trong hai trường hợp, cáchình ảnh có được dưới dạng các thiết diện (coupe), từ đó nhiều tái tạo(reconstruction) có thể được thực hiện theo hai hoặc ba chiều không gian.Hai phương thức theo cùng diễn biến : một temps d’acquisition, được thựchiện bởi người thao tác, theo những protocole rất nghiêm chỉnh được pháthọa bởi Société française de radiologie, rồi một temps de travail de l’image :đo mật độ (densité) đối với scanner hay tín hiệu (signal) đối với IRM, tái tạonhiều bình diện (reconstruction multiplan), định lượng các chỗ hep(sténoses)… và nhất là một temps d’interprétation) được thực hiện bởi thầythuốc quang tuyến tìm kiếm và phân tích những bất thường và hội nhậpchúng trong một bối cảnh lâm sàng để đề nghị một hay nhiều giả thuyết chẩnđoán : scanner và IRM thường cần sử dụng những chất cản quang được tiêmbằng đường tĩnh mạch và cho phép, thí dụ, chẩn đoán một chỗ hẹp hay mộtchỗ tắc của một mạch máu hay phát hiện và xác định đặc điểm tốt hơn cáckhối u.Những dữ kiện thu được khi làm scanner cũng như khi làm IRM là nhữngdữ kiện số (données numériques), có thể truyền và cất giữ. Như thế điều nàycho phép so sánh những thăm dò, (là điều cần thiết), cho phép thấy lại nhữnghình ảnh dưới ánh sáng của những yếu tố mới hay cho phép nhận được ýkiến của một thầy thuốc quang tuyến chuyên khoa trong một lãnh vực rấtđặc hiệu nào đó. Sau cùng, scanner và IRM là những trang thiết bị chụp hìnhảnh mà sự thiết đặt thường cần được cho phép bởi chính quyền, điều nàygiải thích những thời hạn lấy hẹn quá dài để có thể thực hiện một điều trị tốiưu; điều này đặc biệt đúng đối với IRM, mà số lượng hiện có được đánh giátheo số máy đối với 100.000 dân, xếp loại chúng ta vào trong những học tròrất kém ở Châu Âu, với một tỷ lệ 8,7IRM trên mỗi triệu dân số với 15,6 đốivới mức trung bình châu Âu.Mặc dầu có nhiều điểm chung giữa scan và IRM, nhưng nguyên tắc vật lýcủa chúng hoàn toàn khác nhau : scanner dựa vào một sự hấp thụ đặc hiệucác tia X bởi các mô khác nhau. Nó gây nên một sự tiếp xúc với các tia X vàchỉ định dùng nó phải được cân nhắc, đặc biệt là đối với những phụ nữ cóthai, các trẻ em và những người trẻ tuổi. Scanner có một résolution khônggian rất tốt và cho phép những cấu trúc inframillimétriques.NHỮNG THĂM KHÁM PHỤCòn IRM thì dựa vào tính chất của vài hạt nhân nguyên tử, phát ra những tínhiệu có thể phát hiện được khi chúng được đặt trong một từ trường và chịumột tần số phóng xạ (radiofréquence) đặc biệt, có khả năng làm cho chúngvang âm. Thăm dò bằng IRM bị cấm chỉ đối với những người mang mộtpacemaker (stimulateur cardiaque) hay những vật là trong nhãn cầu. IRM cómột résolutiuon en contraste rất tốt và cho phép phân biệt tốt hơn các mô cónhững thành phần khác nhau, vậy đó là chụp hình ảnh được sử dụng ưu tiêntrong thăm dò các nhu mô, nhất là não bộ, nhưng cũng của gan, tuyến vú haytiền liệt tuyến. IRM không những là một phương thức cơ thể học mà còn làmột phương thức chức năng của các cơ quan khác nhau và do đó cho phépchẩn đoán một tình trạng thiếu máu cục bộ một cách rất sớm, cách duy nhấtkhiến cơ thể chữa lành nó. Ngược lại, IRM cần xunh quang bệnh nhân mộtdụng cụ (ống truyền, máy thở) không nhạy cảm với từ trường. Điều này giảithích tại sao scanner được ưa thích hơn IRM trong vài tình huống : cấp cứu,ngoại trừ chụp hình ảnh não bộ, nơi những bệnh nhân hồi sức hay trong việcthực hiện những động tác được hướng dẫn bởi chụp hình ảnh, dầu là để chẩnđoán hay điều trị.Scanner hay IRM chắc chắn là những phương thức chụp hình ảnh đã hưởngđược những tiến bộ lớn nhất về công nghệ học trong 10 năm qua, với sự pháttriển của những lãnh vực áp dụng mới như chụp hình ảnh của tim và cácđộng mạch vành và, thay vì đối lập chúng với nhau, phải xem chúng như làbổ sung cho nhau : chụp hình ảnh hợp nhất (imagerie de fusion) chứng tỏđiều đó, hứa hẹn phát triển mạnh, bởi vì phương pháp này sẽ cho phép hợpnhất những dữ kiện từ scanner và IRM. ...

Tài liệu được xem nhiều: