Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: Nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao
Số trang: 25
Loại file: pdf
Dung lượng: 525.43 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: Nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao trình bày những nội dung chính về biến đổi tại miền núi và kết nối nông thôn–thành thị vùng Đông Nam Á, lịch sử hình thành của cộng đồng được nghiên cứu, tự do hóa thị trường và đô thị hóa trong nông thôn, tự do hóa thị trường và thị trường đất đai tại Hà Tây,... Mời các bạn tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: Nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao Thu Hẹp Khoảng Cách Giữa Miền Núi và Đồng Bằng: Nghiên Cứu Dân Tộc Học về Thị Trường Đất Đai tại Một Xóm người Dao Tô Xuân Phúc Khoa Nhân học, trường Đại học Toronto, Canada (Nguồn: In trong Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam. Nxb Khoa hoc kỹ thuật, 2008) Giới thiệu Nằm cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Tây Bắc, Hợp Sơn là xóm nhỏ người Dao với 104 hộ và khoảng 500 khẩu. Xóm nằm tại chân núi Ba Vì, thuộc vùng đệm của Vườn Quốc gia Ba Vì1. Khi tôi đến xóm lần đầu tiên vào đầu năm 2003, xóm dường như giống như các xóm vùng cao khác nơi tôi đã từng đến. Các hộ gia đình sống trong những ngôi nhà nhỏ, trong nhà là các vật dụng giản đơn như những bộ bàn ghế mộc mạc, màn chiếu cũ kỹ. Người dân trồng lúa nước tại các thung lũng nơi sẵn có các nguồn nước. Bên cạnh đó, họ trồng sắn và dong riềng trên đất của Vườn Quốc gia (VQG). Các hộ trong xóm hầu như không có nguồn thu nào khác ngoài thu nhập từ nông nghiệp. Cả xóm lúc đó (2003) mới chỉ xuất hiện 2 cửa hàng tạp hóa nhỏ cung cấp các vật dụng đơn giản như mắm, muối, mì chính cho các hộ trong xóm. Một vài hộ khá giả trong xóm đã mua được xe máy. Vào lúc đó, xe máy được coi là một loại tài sản quý của hộ. Khi tôi quay lại xóm vào cuối năm 2004, tôi thực sự bất ngờ trước những đổi thay to lớn trong xóm. Các ngôi nhà mới với mái ngói đỏ tươi rói, tường xanh hoặc vàng mới được mọc lên. Công nông chở gạch, ngói xi măng tất bật ngược xuôi trên con đường nhỏ của xóm. Gạch, cát, vôi, v.v... nằm chờ bên cạnh con đường nhỏ của xóm làm cho con đường trước kia đã hẹp nay lại càng hẹp lại. Âm thanh của công nông pha lẫn với các âm thanh khác của xe máy, máy ủi, máy xúc, các giàn máy nghe nhạc của một số quán karaoke mới mọc lên phá tan cái bầu không gian yên tĩnh trước đây của xóm. Một số cửa hàng mới trong xóm đã mọc lên. Tại nơi đây, người dân có thể mua một số vật dụng cao cấp và đắt tiền có bày bán tại các siêu thị tại Hà Nội, hoặc ở một số tỉnh đồng bằng như quạt điện, nồi cơm điện, máy bơm nước. Vào cuối tuần, xóm trở lên tấp nập hơn những ngày bình thường bởi sự xuất hiện của các đoàn khách sang trọng đến xóm bằng 1 Người Dao được xếp là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Theo thống kê năm 1999, cả nước có khoảng 620.000 người Dao sinh sống, tương đương với khoảng 0,81% dân số của cả nước. Người Dao cư trú tại 39 tỉnh trong cả nước (Vương Xuân Tình và cộng sự, 1999). 1 những chiếc xe con bóng loáng có biển số đăng ký của Hà Nội hoặc Hà Tây, đôi khi là Hải Phòng. Những đổi thay to lớn trong xóm là do có sự xuất hiện của thị trường đất đai tại đây. Vào cuối năm 2003, các hộ tại Hợp Sơn bắt đầu bán những mảnh vườn của mình cho những người chủ yếu là từ Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây. Người dân trong xóm thường gọi những người mua đất bằng cái tên “người thành phố”. Đến cuối năm 2004, khoảng 70 hộ trong xóm đã bán đất. Một nửa trong số họ bán cho người thành phố, nửa còn lại bán cho các hộ khác trong xóm, những người đã bán hết đất bao gồm cả nhà của mình. Để có đất làm nhà mới, họ buộc phải mua đất của các hộ khác. Một số hộ bán phần lớn diện tích, chỉ giữ lại một mảnh đất nhỏ, chỉ đủ để xây nhà và thừa lại một chút đất xung quanh được coi là vườn. Cho đến cuối năm 2004, hầu hết các mảnh vườn rộng nằm ở vị trí đẹp và thuận lợi cho việc đi lại đã được bán cho người thành phố. Các hộ trong xóm thường xây nhà trên những mảnh đất hẹp, thường xa đường giao thông và đi lại thường kém thuận tiện. Tính đến nay, mặc dù đã mua được 3 năm, hầu hết những thành phố vẫn chưa sử dụng những mảnh vườn. Đi trên con đường của xóm, một điều ai cũng có thể dễ dàng nhận ra các mảnh đất của người thành phố. Thông thường đây là các mảnh đất nằm kề ngay bên đường đi. Xung quanh các mảnh đất này thường được hàng trăm cột bê tông cao khoảng 1-1,5 m, được chôn cố định trên mặt đất bảo vệ. Các cột được nối với nhau bằng hàng rào dây kẽm gai chạy xung quanh các mảnh vườn. Người thành phố làm việc này nhằm ngăn không cho người ngoài và trâu bò xâm nhập vào mảnh đất của mình. Thông thường, phía bên trong của hàng rào là những ngôi nhà nhỏ trước kia của người dân, với cửa được đóng im ỉm. Xung quanh các ngôi nhà này thường là các nương chè bỏ hoang, hoặc cỏ dại. Hỏi bất cứ người dân nào trong xóm về người chủ của những mảnh đất đất này, tôi thường nhận được những câu trả lời như: “Mảnh đó là mảnh của ông… thuộc phố Đội Cấn. Mảnh phía bên trái là của bà… thuộc Cục Thú Y…. Phía sau của mảnh đó là của ông… nhà báo ở Hà Nội…”. Nhìn chung, người thành phố đã mua hết những mảnh đất rộng, ở những địa thế đẹp, để lại cho người dân trong xóm những mảnh đất nhỏ, thông thường nằm xa đường đi và không thuận tiện về giao thông. Những gì đang diễn ra tại xóm Hợp Sơn là tiến trình thay đổi về cảnh quan và cấu trúc không gian của nông thôn miền núi. Cụ thể hơn, đó là tiến trình thay đổi nông thôn từ chức năng sản xuất sang chức năng tiêu thụ (Rigg, 2001). Trong bài viết này tôi sẽ tập trung phân tích bản chất của sự thay đổi và các tác động của nó tới các mối quan hệ xã hội tại xóm. Bài viết xoáy vào một số câu hỏi như yếu tố nào đã làm hình thành thị trường đất đai tại xóm, tác động của thị trường 2 này đối với việc phân chia lợi ích, rủi ro, và mâu thuẫn giữa các thành viên tham gia thị trường như thế nào. Trước khi trả lời các câu hỏi này, tôi sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu trước đây về tiến trình thay đổi miền núi cũng như mối liên kết giữa miền núi và đồng bằng tại một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Biến đổi tại miền núi và kết nối nông thôn – thành thị vùng Đông Nam Á Trước đây, nhiều người quan niệm rằng miền núi vùng Đông Nam Á là nơi sinh sống của ch ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thu hẹp khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng: Nghiên cứu dân tộc học về thị trường đất đai tại một xóm người Dao Thu Hẹp Khoảng Cách Giữa Miền Núi và Đồng Bằng: Nghiên Cứu Dân Tộc Học về Thị Trường Đất Đai tại Một Xóm người Dao Tô Xuân Phúc Khoa Nhân học, trường Đại học Toronto, Canada (Nguồn: In trong Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam. Nxb Khoa hoc kỹ thuật, 2008) Giới thiệu Nằm cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Tây Bắc, Hợp Sơn là xóm nhỏ người Dao với 104 hộ và khoảng 500 khẩu. Xóm nằm tại chân núi Ba Vì, thuộc vùng đệm của Vườn Quốc gia Ba Vì1. Khi tôi đến xóm lần đầu tiên vào đầu năm 2003, xóm dường như giống như các xóm vùng cao khác nơi tôi đã từng đến. Các hộ gia đình sống trong những ngôi nhà nhỏ, trong nhà là các vật dụng giản đơn như những bộ bàn ghế mộc mạc, màn chiếu cũ kỹ. Người dân trồng lúa nước tại các thung lũng nơi sẵn có các nguồn nước. Bên cạnh đó, họ trồng sắn và dong riềng trên đất của Vườn Quốc gia (VQG). Các hộ trong xóm hầu như không có nguồn thu nào khác ngoài thu nhập từ nông nghiệp. Cả xóm lúc đó (2003) mới chỉ xuất hiện 2 cửa hàng tạp hóa nhỏ cung cấp các vật dụng đơn giản như mắm, muối, mì chính cho các hộ trong xóm. Một vài hộ khá giả trong xóm đã mua được xe máy. Vào lúc đó, xe máy được coi là một loại tài sản quý của hộ. Khi tôi quay lại xóm vào cuối năm 2004, tôi thực sự bất ngờ trước những đổi thay to lớn trong xóm. Các ngôi nhà mới với mái ngói đỏ tươi rói, tường xanh hoặc vàng mới được mọc lên. Công nông chở gạch, ngói xi măng tất bật ngược xuôi trên con đường nhỏ của xóm. Gạch, cát, vôi, v.v... nằm chờ bên cạnh con đường nhỏ của xóm làm cho con đường trước kia đã hẹp nay lại càng hẹp lại. Âm thanh của công nông pha lẫn với các âm thanh khác của xe máy, máy ủi, máy xúc, các giàn máy nghe nhạc của một số quán karaoke mới mọc lên phá tan cái bầu không gian yên tĩnh trước đây của xóm. Một số cửa hàng mới trong xóm đã mọc lên. Tại nơi đây, người dân có thể mua một số vật dụng cao cấp và đắt tiền có bày bán tại các siêu thị tại Hà Nội, hoặc ở một số tỉnh đồng bằng như quạt điện, nồi cơm điện, máy bơm nước. Vào cuối tuần, xóm trở lên tấp nập hơn những ngày bình thường bởi sự xuất hiện của các đoàn khách sang trọng đến xóm bằng 1 Người Dao được xếp là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam. Theo thống kê năm 1999, cả nước có khoảng 620.000 người Dao sinh sống, tương đương với khoảng 0,81% dân số của cả nước. Người Dao cư trú tại 39 tỉnh trong cả nước (Vương Xuân Tình và cộng sự, 1999). 1 những chiếc xe con bóng loáng có biển số đăng ký của Hà Nội hoặc Hà Tây, đôi khi là Hải Phòng. Những đổi thay to lớn trong xóm là do có sự xuất hiện của thị trường đất đai tại đây. Vào cuối năm 2003, các hộ tại Hợp Sơn bắt đầu bán những mảnh vườn của mình cho những người chủ yếu là từ Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây. Người dân trong xóm thường gọi những người mua đất bằng cái tên “người thành phố”. Đến cuối năm 2004, khoảng 70 hộ trong xóm đã bán đất. Một nửa trong số họ bán cho người thành phố, nửa còn lại bán cho các hộ khác trong xóm, những người đã bán hết đất bao gồm cả nhà của mình. Để có đất làm nhà mới, họ buộc phải mua đất của các hộ khác. Một số hộ bán phần lớn diện tích, chỉ giữ lại một mảnh đất nhỏ, chỉ đủ để xây nhà và thừa lại một chút đất xung quanh được coi là vườn. Cho đến cuối năm 2004, hầu hết các mảnh vườn rộng nằm ở vị trí đẹp và thuận lợi cho việc đi lại đã được bán cho người thành phố. Các hộ trong xóm thường xây nhà trên những mảnh đất hẹp, thường xa đường giao thông và đi lại thường kém thuận tiện. Tính đến nay, mặc dù đã mua được 3 năm, hầu hết những thành phố vẫn chưa sử dụng những mảnh vườn. Đi trên con đường của xóm, một điều ai cũng có thể dễ dàng nhận ra các mảnh đất của người thành phố. Thông thường đây là các mảnh đất nằm kề ngay bên đường đi. Xung quanh các mảnh đất này thường được hàng trăm cột bê tông cao khoảng 1-1,5 m, được chôn cố định trên mặt đất bảo vệ. Các cột được nối với nhau bằng hàng rào dây kẽm gai chạy xung quanh các mảnh vườn. Người thành phố làm việc này nhằm ngăn không cho người ngoài và trâu bò xâm nhập vào mảnh đất của mình. Thông thường, phía bên trong của hàng rào là những ngôi nhà nhỏ trước kia của người dân, với cửa được đóng im ỉm. Xung quanh các ngôi nhà này thường là các nương chè bỏ hoang, hoặc cỏ dại. Hỏi bất cứ người dân nào trong xóm về người chủ của những mảnh đất đất này, tôi thường nhận được những câu trả lời như: “Mảnh đó là mảnh của ông… thuộc phố Đội Cấn. Mảnh phía bên trái là của bà… thuộc Cục Thú Y…. Phía sau của mảnh đó là của ông… nhà báo ở Hà Nội…”. Nhìn chung, người thành phố đã mua hết những mảnh đất rộng, ở những địa thế đẹp, để lại cho người dân trong xóm những mảnh đất nhỏ, thông thường nằm xa đường đi và không thuận tiện về giao thông. Những gì đang diễn ra tại xóm Hợp Sơn là tiến trình thay đổi về cảnh quan và cấu trúc không gian của nông thôn miền núi. Cụ thể hơn, đó là tiến trình thay đổi nông thôn từ chức năng sản xuất sang chức năng tiêu thụ (Rigg, 2001). Trong bài viết này tôi sẽ tập trung phân tích bản chất của sự thay đổi và các tác động của nó tới các mối quan hệ xã hội tại xóm. Bài viết xoáy vào một số câu hỏi như yếu tố nào đã làm hình thành thị trường đất đai tại xóm, tác động của thị trường 2 này đối với việc phân chia lợi ích, rủi ro, và mâu thuẫn giữa các thành viên tham gia thị trường như thế nào. Trước khi trả lời các câu hỏi này, tôi sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu trước đây về tiến trình thay đổi miền núi cũng như mối liên kết giữa miền núi và đồng bằng tại một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Biến đổi tại miền núi và kết nối nông thôn – thành thị vùng Đông Nam Á Trước đây, nhiều người quan niệm rằng miền núi vùng Đông Nam Á là nơi sinh sống của ch ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thu hẹp khoảng cách miền núi đồng bằng Khoảng cách giữa miền núi và đồng bằng Nghiên cứu dân tộc học Thị trường đất đai Thị trường đất đai của người DaoGợi ý tài liệu liên quan:
-
131 trang 99 0 0
-
Giáo trình Định giá đất - TS. Hồ Thị Lam (chủ biên)
137 trang 59 0 0 -
12 trang 51 0 0
-
12 trang 46 0 0
-
Thị trường chung cư khó hy vọng ngược dòng
3 trang 41 0 0 -
Đề cương chi tiết học phần: Định giá đất và bất động sản
3 trang 34 0 0 -
Bài giảng Định giá đất: Chương 1 - Bùi Nguyên Mạnh
9 trang 31 0 0 -
3 trang 31 0 0
-
1 trang 30 0 0
-
Tiếp cận đất đai: Nhà đầu tư sẽ 'dễ thở' hơn?
3 trang 29 0 0