Danh mục

THƯƠNG VỢ

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 117.68 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trong con đường khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồng bào quê ông. Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
THƯƠNG VỢ THƯƠNG VỢTác giả Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trongcon đường khoa cử: “Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, chỉ sống 37năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thànhphố Nam Định. “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương” là câu nói tự hào của đồngbào quê ông. Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ nôm, vài bài phú và văn tế. Có bàitrào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơtrào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơtrào phúng bậc thầy trong nền văn học cận đại của dân tộc.Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo - Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo“quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”, cảnh đầu chợ, bến đò,buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có làbao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng?”. Chồng đậu tú tài,chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một giacảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng)quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”, nghĩa là ông Tú vẫn có “giày giônanh dận, ô Tây anh cầm”,… Câu thứ 2 rất hóm hỉnh. - Câu 3-4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành “thân cò” - thânphận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà Túthì lặn lội… khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnhcãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơmmanh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo, vần thơ trở nêndân dã, bình dị. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộcđời nhiều mồ hôi và nước mắt. - Câu 5, 6, tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “Một duyên hai nợ” và“năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dámquản công” như một tiếng thở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận.Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong giađình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hy sinhthầm lặng cao quý của bà Tú: “Một duyên hai nợ/âu đành phận, Năm nắng mười mưa/dám quản công”. Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của baođức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan chohạnh phúc chồng con. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.Nỗi niềm nhà thơ - Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắngvừa phẫn nộ: “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. “Cái thói đời” đó là xã hội dở Tâydở ta, nửa phong kiến nửa thực dân: đạo lý suy đồi, lòng người đảo điên. TúXương tự trách mình là kẻ “ăn ở bạc” vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp đượcích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: “Vợlăm le ở vú - Con tập tểnh đi bộ - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bánrồi”. - Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú X ương mới nói đượcrung động và xót xa thế: “Có chồng hờ hững cũng như không”. “Nhưkhông” gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liềnvới nỗi thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!Kết luận Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao,thành ngữ và tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm.Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu,niêm đến phép đôi được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát.Tác giả vừa tự trách mình vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú làhình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con,nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ “Nuôi đủnăm con với một chồng” là câu thơ hay nhất trong bài “Thương vợ”.

Tài liệu được xem nhiều: