Danh mục

Tiểu luận: Sự truyền dẫn tỷ giá có phụ thuộc vào sự ổn định của kinh tế vĩ mô không?

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 571.57 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cùng tìm hiểu đề tài Sự truyền dẫn tỷ giá có phụ thuộc vào sự ổn định của kinh tế vĩ mô không? hiểu rõ hơn về sự truyền dẫn tỷ giá vào trong giá tiêu dùng có thể không tuyến tính là trái với ước lương tuyến tính chuẩn tìm được trong bài nghiên cứu. ERPT có thể cao hơn trong những thời kỳ của khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng về niềm tin, khi các doanh nghiệp không có động cơ để thu hút tăng chi phí trong trong chi phí biên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận: Sự truyền dẫn tỷ giá có phụ thuộc vào sự ổn định của kinh tế vĩ mô không? BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ---  --- SỰ TRUYỀN DẪN TỶ GIÁ CÓ PHỤ THUỘC VÀO SỰ ỔN ĐỊNH CỦA KINH TẾ VĨ MÔ KHÔNG? GVHD: GS. TS TRẦN NGỌC THƠ NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 3 LỚP: NGÂN HÀNG ĐÊM 1 KHÓA: 22 TPHCM. Tháng 08 năm 2013 GVHD:GS.TS. Tr n Ng c Th DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3 1. Đỗ Thu Hằng 2. Đặng Thị Kiều 3. Lê Thị Thùy Linh 4. Nguyễn Trần Thị Ngọc Nhóm3 - K22 - NH Đêm 1 Page 1 GVHD:GS.TS. Tr n Ng c Th TÓM TẮT: Chúng tôi biện luận rằng, về mặt lý thuyết, Sự truyền dẫn tỷ giá (ERPT) vào trong giá tiêu dùng có thể không tuyến tính là trái với ước lương tuyến tính chuẩn tìm được trong bài nghiên cứu. ERPT có thể cao hơn trong những thời kỳ của khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng về niềm tin, khi các doanh nghiệp không có động cơ để thu hút tăng chi phí trong trong chi phí biên. Chúng ta kiểm tra giả thiết này bằng cách áp dụng của mô hình LSTR (mô hình tự hồi quy chuyển đổi) với dữ liệu của Mexico. Sử dụng hai cách khác nhau đo lường độ bất ổn của kinh tế vĩ mô như các biến chuyển tiếp, chúng tôi tìm ra rằng ERPT dường như tăng trong thời kỳ kinh tế vĩ mô khủng hoảng, làm nổi bật sự quan trọng của sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô trong việc giảm ERPT trong thị trường mới nổi. 1.GIỚI THIỆU: 1.1. Lý thuyết hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá: 1.1.1. Khái niệm: Hiệu ứng truyền dẫn tỉ giá (Exchange rate pass - through, ERPT) thường được hiểu là mức % thay đổi giá trong nước tính bằng đồng tiền của nước nhập khẩu khi tỉ giá tiền tệ giữa các đối tác thương mại thay đổi 1% Theo Goldberg và Knetter (1997), ERPT được xác định như là “Phần trăm thay đổi giá nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ khi tỷ giá giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu thay đổi 1%” Hay hiệu ứng truyền dẫn tỉ giá chính là độ co dãn của giá trong nước so với tỉ giá. Có 2 khía cạnh: Mối tương quan giữa giá hàng nhập khẩu và tỉ giá và tác động của tỉ giá đến mức giá chung (ví dụ: thông qua chỉ số giá tiêu dùng CPI) 1.1.2. Nguyên nhân của ERPT: Ngay từ năm 1953, khi bảo vệ cơ chế tỉ giá thả nổi, Milton Friedman đã dựa trên lập luận rằng, cơ chế tỉ giá thả nổi có thể làm thay đổi nhanh chóng giá tương đối giữa các quốc gia: “Tăng tỉ giá, làm giá hàng hóa nước ngoài trở nên rẻ hơn khi tính bằng nội tệ, ngay cả khi giá của chúng tính bằng ngoại tệ không thay đổi, và hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn khi tính bằng ngoại tệ, ngay cả khi giá của chúng không thay đổi nếu tính bằng nội tệ. Điều này làm tăng nhập khẩu và giảm xuất khẩu” Nhóm3 - K22 - NH Đêm 1 Page 2 GVHD:GS.TS. Tr n Ng c Th Tại sao tỉ giá có thể tác động đến giá trong nước của một quốc gia? Có tối thiểu ba kênh mà thông qua đó, giá tiêu dùng thích ứng với những thay đổi của tỉ giá danh nghĩa: trực tiếp, gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài Kênh truyền dẫn trực tiếp: thay đổi trực tiếp giá cả các hàng hóa nhập khẩu trung gian và nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng do thay đổi tỉ giá. Kênh truyền dẫn gián tiếp: dựa trên giả thuyết về sự thay thế lẫn nhau của hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Bao gồm sự thay thế giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nội địa (sự thay thế bên trong) và trên thị trường nước ngoài (sự thay thế bên ngoài). Hiệu ứng FDI: Sự giảm giá mạnh của đồng nội tệ làm giảm mạnh cầu đối với nhiều loại hàng hóa nhập khẩu và giảm mạnh tiền lương danh nghĩa tính bằng ngoại tệ. Trước đó, các tập đoàn xuyên quốc gia đã cung cấp nhiều hàng hóa vào thị trường nội địa, trong thời gian khủng hoảng phải đối mặt với tình thế lưỡng nan: hoặc đánh mất thị phần thị trường xuất khẩu của mình hay bắt đầu xây dựng cơ sở sản xuất tại nước nội địa nhằm tận dụng các lợi thế so sánh về tiền lương và công nghệ. Nhiều tập đoàn đã mở chi nhánh và dịch chuyển các cơ sở sản xuất vào nước nội địa (FDI flows). Tăng trưởng sản xuất làm tăng cầu lao động và tăng tiền lương. Đến lượt mình, điều này đã đẩy giá tăng lên. Nhóm3 - K22 - NH Đêm 1 Page 3 GVHD:GS.TS. Tr n Ng c Th Những nguyên nhân làm cho hiệu ứng ERPT không hoàn toàn và những khác biệt về ERPT Học thuyết ngang giá sức mua (Quy luật một giá) - cơ sở luận của ERPT, cho rằng sự truyền dẫn của tỉ giá sang giá trong nước phải là toàn phần (độ co giãn phải bằng 100%) và hoàn toàn không có một cơ hội nào cho kinh doanh chênh lệch giá trong dài hạn. Vì vậy, nghiên cứu ERPT đồng nghĩa với nghiên cứu PPP. Nhưng nghiên cứu thực nghiệm đã chứng tỏ rằng PPP không tồn tại trong ngắn hạn. Có rất nhiều lí do khiến ngang giá sức mua không được duy trì liên tục do bên cạnh chênh lệch về lạm phát thì tỷ giá hối đoái còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác dẫn đến mô hình lí thuyết PPP trong thế giới thực rất khó xảy ra với những giả định hoàn hảo như không có chi phí vận chuyển, thuế quan và hạn ngạch, cạnh tranh hoàn hảo…. Nhóm3 - K22 - NH Đêm 1 Page 4 GVHD:GS.TS. Tr n Ng c Th Những nguyên nhân làm cho hiệu ứng ERPT không hoàn toàn do: Hiệu ứng dịch chuyển chi tiêu: Một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái danh nghĩa có thể không dẫn đến thay thế nhiều giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hoá sản xuất quốc tế, bởi vì giá cả tương đối của những mặt hàng không thay đổi nhiều cho người sử dụng cuối cùng hoặc do không có hàng thay thế cho hàng ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: