Vua Lê Thái Tổ đã từng khóc một ngườiVề Đông Anh dự hội Dục Nội – xã Việt Hùng vào ngày 11 tháng 8 âm lịch thường nghe câu ca dao cổ: Chín xóm Cổ Loa không bằng ba làng Dục Nội/ Ba làng Dục Nội không bằng chín hội Cổ Loa.Câu ca đó gợi cho biết quan hệ giữa kinh đô, Cổ Loa (thời An Dương Vương, Ngô Vương) với các làng xung quanh. Ở vào vị trí đó, từ xưa, Dục Nội là tiền vệ, chống trả những đợt xâm lấn của quân giặc.Theo truyền thuyết dân gian...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vua Lê Thái Tổ đã từng khóc một người Vua Lê Thái Tổ đã từng khóc một người Về Đông Anh dự hội Dục Nội – xã Việt Hùng vào ngày 11 tháng 8 âm lịchthường nghe câu ca dao cổ: Chín xóm Cổ Loa không bằng ba l àng Dục Nội/ Balàng Dục Nội không bằng chín hội Cổ Loa. Câu ca đó gợi cho biết quan hệ giữa kinh đô, Cổ Loa (thời An Dương Vương,Ngô Vương) với các làng xung quanh. Ở vào vị trí đó, từ xưa, Dục Nội là tiền vệ,chống trả những đợt xâm lấn của quân giặc. Theo truyền thuyết dân gian thì nơi đây vốn thờ hai vị Thổ Địa và Thiên Thần. Thổ Địa là vị thần cai quản đất đai được thờ phụng từ sớm, cùng với sự định cưcủa dân làng. Họ đã dựng ngôi miếu đầu làng để thờ Thổ Địa và tôn ngài là ĐốngLan Thần tướng. Vị thần thứ hai là Thiên Cương Thần tướng, ngài có công đánh giặc Ân. Thầntích chép rằng Thiên Cương đã theo lệnh cha về giúp Vua Hùng thứ VI đánh giặc,tiêu diệt được tướng giặc là A Lỗ Châu. Khi giặc Ân sang xâm lấn, chưa tìm đượctướng tài, Thiên Cương đã mộ quân kháng cự, khi có Phù Đổng Thiên vương xuấtquân, Thiên Cương đem quân theo, lập nhiều công trạng. Đánh tan giặc Ân, PhùĐổng Thiên vương phi ngựa lên núi Sóc Sơn rồi bay về trời, Thiên Cương đượcvua Hùng phong là Thiên Cương Đại vương và phối thờ tại Dục Nội. Đến thế kỷ XV, vào cuối triều Trần ở trang Bình Lâm, huyện An Phú, phủ TừSơn, trấn Kinh Bắc (nay là xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) có gia đìnhông bà Ngô Hiển và Dương Thị Oanh làm nghề bán dầu. Hai ông bà ăn ở phúchậu, đối xử tốt với mọi người, chỉ mong sao có người con nối dõi. Một đêm, ôngNgô Hiển mơ thấy thần nhân mách bảo: “Lòng thành của ngươi đã thấu tới trời, sẽcó quý nhân đầu thai để giúp nước sau này”. Từ đó bà Dương thị có mang, đếnnày 10 tháng 8 năm Giáp Tý (1884) sinh đ ược một con trai, ông bà yêu quý vôcùng, sớm hôm chăm sóc. Khi lớn tìm thầy dạy học. Năm 15 tuổi, người con trai ấy mang tên Ngô Đễ, đã tinh thông các môn võnghệ, lại thuộc làu binh thư, đáng là vị tướng tài. Hiềm vì lúc đó Hồ Quý Ly vừatiếm ngôi nhà Trần nên ông bà chưa cho con xuất hiện. Năm Ngô Đễ 20 tuổi, chamẹ lần lượt qua đời. Sau khi an táng cha mẹ, c ư tang đầy đủ, lúc này nhà Minh đãsai Trương Phụ đem quân sang đánh Đại Việt, lấy cớ là diệt nhà Hồ để phù dựngcon cháu nhà Trần, thực tế là âm mưu cai trị nước ta. Trương Phụ đã đánh bại chacon nhà Hồ Quý Ly, bình định các cuộc khởi nghĩa của Giản Định đế và TrùngQuang đế đều là con cháu nhà Trần. Dưới ách đô hộ của nhà Minh, dân ta chịunhiều áp bức, cụ Nguyễn Trãi khi viết: “Bình Ngô đại cáo” đã kể tội chúng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn! Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ! Trước sự khổ cực của nhân dân, Ngô Đễ ngày đêm tìm cách chống lại quân xâmlược, nhưng biết tìm minh chủ ở đâu? Ông đã đến các đền thiêng để xin thánh thầnchỉ bảo. Một đêm, Ngô Đễ đến miếu thờ hai vị Thổ Thần và Thiên Thần ở thônDục Nội để xem chỉ dẫn. Canh tư đêm ấy, ông mơ thấy hai vị thần hiện đến nóicho biết: “Nay ở Lam Sơn, Chí Linh, Thanh Hoá có người nghĩa sĩ Lê Lợi đã dựngcờ khởi nghĩa, ngươi hãy tìm đến giúp sức, việc gấp lắm rồi!” Sáng hôm sau, Ngô Đễ về quê bái tạ từ đường, bái tạ mộ phần cha mẹ rồi tìmđường vào Chí Linh. Lúc này ở đây sau mấy trận giáp chiến với quân Minh, nghĩaquân đang bị giặc vây ép. Chúng đã đánh vào hậu cứ nghĩa quân, bắt cả vợ con LêLợi cùng gia đình các tướng sĩ, nên lòng quân đang nản. Được Ngô Đễ ra mắt,Thủ lĩnh Lê Lợi mừng lắm, phong ông là Tiền Đương Vũ Đại tướng, giao chobinh sĩ để cùng chiến đấu. Từ đó hơn 10 năm nằm gai nếm mật, Ngô Đễ đã cùngcác tướng lĩnh khác lần lượt đánh tan quân Minh. Đặc biệt là chiến dịch Chi Lăngchặn đánh viện binh nhà Minh do Liễu Thăng chỉ huy. Nghĩa quân đã chém đầuđược Liễu Thăng, khiến cho Mộc Thạnh mới tiến đến ải Lê Hoa phải lui binh.Vương Thông trong thành Đông Quan (tức Thăng Long) cô thế phải xin lập đànthề cầu hoà để được rút quân về nước. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, định ra các hạch công gồm hạng nhất 52 người,hạng nhì 71 người, hạng ba 94 người đều ban cho quốc tính. Tướng quân Ngô Đễđược phong làm quan giữ 12 cửa biển, ân hưởng thực ấp ở Đông Ngàn. Tại buổibình công, Tướng quân tâu thực với nhà vua về việc hai vị thần Thiên Cương vàĐống Lang ở Dục Nội đã âm phù chỉ bảo mình đến với nghĩa quân, nhà vua khenlà người có tín nghĩa, đều gia phong hai vị Thiên Cương Linh ứng Đại vương,Đống Lang Linh ứng Đại vương thờ tại Dục Nội. Thời gian sau, ông Ngô Đễ đem quân về Đông Ngàn, tu sửa hành doanh tại DụcNội, trong buổi tiệc vui mừng công với bô lão trong trang, ông đã hoá thần. Tin dữbay về Thăng Long, vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) rất thương xót. Nhà vua tự tayviết câu đối viếng: Cái thế anh hùng kim cổ thiếu Tại nhân công đức địa thiên đường Tạm dịch: Anh hùng che cả thế gian xưa nay hiếm Công đức để lại còn mãi với đất trời Trong thần phả ở đình thông Đoài - Dục Nội còn chép một bài văn tế, tươngtruyền là của Lê Thái Tổ. Toàn văn như sau: “Núi Lam Sơn có thể mài dao Sông Lạc thuỷ có thể rửa giáp Sông núi còn mãi, nay ông đã đi đâu?Người xưa thường nghe tiếng trống tiếng chiêngChạnh nhớ tới tướng soái ngoài biên ảiLòng ta thật xót xa thay!Ông một thân mưu lược vạn binh pháp trong lòngHơn mười năm lặn lội tuyết sươngLẫm liệt oai phong không ngại mũi tên hòn đạnTrăm trận đẩy núi chặn sóng tràoCông lớn rõ ràng đáng ghi vào điển lễNgàn vàng ân trạch chưa đềnVạn dặm ruổi rong cùng góp sứcLà chỗ dựa mạnh mẽ của nhà ĐườngChót vót đồn xa trăm trượngBỗng bão Hán tưởng như ngọn đèn lụi.Sợi liễu mảnh mai ngoài hiên còn thổn thứcNgọn mâu quân lệnh cũ còn nghe Ta đang nhớ đến thuở lận đận có nhau Sao ông nỡ phụ tình thâm hẹn ước” (Theo bản dịch của TS. Đỗ Thị Hảo) Trong “Đại Việt sử ký toàn thư” và các tài liệu tham khảo, chưa tìm được bàivăn tế nào do Lê Lợi viết để viếng các tướng lĩnh đã cùng nhà vua “mười năm lặnlội tuyết sương” mà chỉ thấy ghi chép về việc ...