Danh mục

Y Học Cổ Truyền Nam Kinh TỐ VẤN part 9

Số trang: 26      Loại file: pdf      Dung lượng: 245.68 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Y Học Cổ Truyền Nam Kinh TỐ VẤN part 9Thiên sáu mươi tư: TỨ THỜI THÍCH NGHỊCH TÙNG LUẬN Quyết âm hữu dư, thời mắc bệnh Âm tý, bất túc, thời mắc bệnh Nhiệt tý, Hoạt, thời mắc bệnh Hồ sán phong; sắc, thời mắc bệnh Thiếu phúc tích khí (1) [1] . Thiếu âm hữu dư, mắc bệnh Tý, và ẩn chuẩn (mọc nóát như sởi); bất túc, mắc chứng Phế tý. Hoạt thời mắc bệnh Phế phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, và tiểu ra huyết [2]. 3 Thái âm hữu dư, mắc bệnh Nhục tý và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y Học Cổ Truyền Nam Kinh TỐ VẤN part 9Y Học Cổ Truyền Nam Kinh TỐ VẤN part 9 Thiên sáu mươi tư: TỨ THỜI THÍCH NGHỊCH TÙNG LUẬN Quyết âm hữu dư, thời mắc bệnh Âm tý, bất túc, thời mắc bệnh Nhiệt tý, Hoạt, thờimắc bệnh Hồ sán phong; sắc, thời mắc bệnh Thiếu phúc tích khí (1) [1] . Thiếu âm hữu dư, mắc bệnh Tý, và ẩn chuẩn (mọc nóát như sởi); bất túc, mắc chứngPhế tý. Hoạt thời mắc bệnh Phế phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, và tiểu ra huyết[2]. 3 Thái âm hữu dư, mắc bệnh Nhục tý và hàn trung, bất túc, thời mắc bệnh Tỳ tý.Hoạt thời mắc bệnh Tý, Phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, Tâm phúc bị [3]. 4) Dương minh hữu dư, mắc bệnh mạch tý, mình thường nóng. Bất túc, mắc bệnhTâm tý, hoạt thời mắc bệnh Tâm phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, thỉnh thoảng haykinh [4]. 5) Thái dương hữu dư, mắc bệnh cốt tý, mình nặng, bất túc, mắc bệnh thận tý, hoạtthời mắc bệnh Thận phong sán, sắc thời mắc bệnh tích, thỉnh thoảng phát chứng điên[5]. 6) Thiếu dương hữu dư, ắc bệnh Cân tý, hiếp mãn, bất túc, mắc bệnh Cân tý. Hoạt,thời mắc bệnh Can phong sán, sắc thời bệnh tích, thỉnh thoảng gân rút, và đau mắt (1)[6]. Aáy cho nên: khí mùa Xuân ở Kinh mạch, khí mùa Hạ ở Tôn lạc, khí mùa Trường hạở Cơ nhục, khí mùa Thu ở Bì phu, khí mùa Đông ở trong Cốt tủy [7]. Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết nguyên nhân ra làm sao? [8] Mùa Xuân, là thời kỳ khí trời mới mở ra, khí đất mới phát tiết, váng mỡ, giá tan, thủylưu hành, kinh thông lợi. Cho nên khi người ở trong mạch. Mùa Hạ, kinh đầy, khí ràn,vào Tôn lạc để tiếp nhận lấy huyết, bì phu do đó được đầy dặc, mùa Trường hạ kinhlạc đều thịnh, do bên trong tiết vào cơ nhục, mùa Thu, khí trời mới thâu lễm, tấy lý vítlấp, bì phu khô dẳng, mùa Đông che giấp huyết khí ở bên trong, bám liền vào cốt tủy,để lại giao thông với 5 Tàng (1) [9]. Vậy nên, tà khí thường theo khí huyết của con người ở bốn mùa để thừa cơ vào“Khách”. Nhưng đến sự biến hóa thời thật khó mà đo lường. Dù sao cũng phải thuậntheo ở Kinh khí để dùng phép thích, nếu tích trừ được tà khí, thời loạn khí s ẽ khôngsinh ra được. Hoàng Đế hỏi: Thích trái với bốn mùa, mà sinh loạn khí, bệnh trạng như thế nào? [11] Kỳ Bá thưa rằng: Mùa Xuân mà thích ở Lạc mạch (xuân khí ở Kinh mạch, mà thích Lạc mạch, là trái),huyết khí sẽ ràn ra ngoài, khiến người thiểu khí, mùa xuân mà thích ở cơ nhhục, huyếtkhi sẽ vòng đi ngược, khiến người thượng khí, mùa xuân, mùa Xuân mà thích ở Câncốt, huyết khí sẽ bám vào trong, khiến người phúc trướng [12]. Mùa Hạ mà thích ở Kinh mạch (mùa Hạ huyết khí đã ra ngoài Tôn lạc), huyết kh í sẽbị kiệt, khiến người rã rời, mùa Hạ mà thích ở Cơ nhục, huyết khí sẽ lộn vào trong,khiến người hay khủng, mùa Hạ mà thích ở cân cốt, huyết khí sẽ nghịch lên, khiếnngười hay nóä [13]. Mùa thu mà thích ở Kinh mạch, huyết khí sẽ ngược lên, khiến người hay quên, mùaThu thích ở Lạc mạch, khiến khí không dẫn được ra bên ngoài, khiến người nằm khôngmuốn cựa, mùa Thu mà thích ở cân cốt, huyết khí sẽ tan rã ở bên trong, khiến ngườirét run [14]. Mùa Đông mà thích ở Kinh mạch, huyết khí sẽ đều thoát, khiến người mắt trôngkhông tỏ, mùa Đông mà thích ở Lạc mạch khí bên trong sẽ tiết ra bên ngoài, lưu thànhchứng đại tý, mùa Đông mà thích ở cơ nhục, dương khí sẽ kiệt tuyệt, khiến người hayquên [15]. Phàm sự thích về bốn mùa đó, đều gây nên bệnh lớn, không t hể theo [16]. Vậy về phép thích, không biết kinh mạch của bốn mùa, bệnh sẽ sinh ra, nếp lấythuận làm nghịch, chính khí sẽ loạn ở bên trong, tà khí và tinh khí sẽ cùng xung độtnhau. Vậy, tất phải xét rõ chín hậu, khiến cho chính khí không loạn, thời tinh khí mớikhông nghịch chuyển mà gây nên bệnh loạn [17]. Hoàng Đế nói: Thích vào năm Tàng, nếu trúng Tâm, thời một ngày chết, khi mới phát bệnh sẽ làchứng “ợ” trúng Can thời năm ngày chết, khi mới phát bệnh sẽ là chứng muốn nói luônmiệng, trúng Phế thời ba ngày sẽ chết, khi mới phát bệnh sẽ là chứng ho, trúng Thậnsáu ngày chết, khi mới phát, sẽ là chứng hắt hơi và vươn vai trúng Tỳ, mười ngày chết,khi mới phát sẽ là chứng thốn (nuốt nước miếng). Thích làm thương đến năm Tàng, tấtphải chết, mà các bệnh lúc mới phát ra đều theo tính các bả tàng. Nhân đó có thể biếtđược là bao giờ chết [18]. Thiên sáu mươi lăm: TIÊU BẢN LUẬN Hoàng Đế hỏi: Bệnh có tiêu (ngọn), bản (gốc), thích có nghịch có tùng (thuận), nghĩa đó như thếnào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Về phương pháp thích, phải phân biệt âm dương, trước sau cùng ứng, nghịch tùngđều hợp, tieuâ bản cùng thay đổi (1) [2]. Cho nên nói rằng: có khi ở tiêu, mà cầu nó ở tiêu, có khi ở bản, mà cầu nó ở bản, cókhi ở bản mà cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản [3]. Cho nên về phương pháp điều trị, có khi lấy ở tiêu mà được, có khi lấy ở bản màđược, có khi nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được [4]. Vậy nếu biết nghịch với tùng đó là chính pháp không còn gì hơn, biết được tiêu bảnmuôn làm muôn đứng, không biết ...

Tài liệu được xem nhiều: