Danh mục

Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh Tông

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 113.57 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh TôngNăm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến hành cuộc cải cách hành chính trên phạm vi cả nước. Ông bỏ hết các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành, chia lại cả nước thành 12 thừa tuyên, thống nhất các đơn vị hành chính thành phủ, huyện, châu, xã. Cuộc cải cách đã tạo được một hệ thống hành chính tinh giản, có hiệu lực, là mô hình tiên tiến của chế độ quân chủ, phong kiến đương thời. Có thể nói Lê Thánh Tông...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh Tông Cải Cách Hành Chính Của Vua Lê Thánh TôngNăm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến hành cuộc cải cách hành chính trên phạm vicả nước. Ông bỏ hết các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phậnthừa hành, chia lại cả nước thành 12 thừa tuyên, thống nhất các đơn vị hành chínhthành phủ, huyện, châu, xã. Cuộc cải cách đã tạo được một hệ thống hành chínhtinh giản, có hiệu lực, là mô hình tiên tiến của chế độ quân chủ, phong kiến đươngthời.Có thể nói Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế đầy tự tin, ý chí kiên định và hànhđộng quyết đoán. Ông trực tiếp điều hành ở mức tối cao nhiều công việc của triềuđình.Năm 1471, khi đã ổn định các vùng biên giới phía bắc và phía nam, cuộc cải cáchhành chính mới thật sự bắt đầu. Bản Hiệu định quan chế tức là văn bản chínhthức về cuộc cải cách hành chính được ban hành. Lê Thánh Tông nêu những lý docấp thiết dẫn đến cuộc cải cách: Đồ bản, đất đai ngày nay so với trước đã khácnhau xa, ta cần phải tự mình giữ quyền chế tác, hết đạo biến thông. ở trong kinh,quân vệ nhiều thì đặt năm phủ để giữ, việc công bề bộn thì đặt sáu bộ bàn nhaucùng làm, sáu khoa để xét bác trăm quan, sáu tự để thừa hành mọi việc. Lê ThánhTông cũng chỉ rõ những lợi ích mà cuộc cải cách đem lại: Ăn hại đã không có,trách nhiệm lại rõ ràng. Như thế là cốt để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, uyquyền không bị lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay, khiến trăm họ có thói quentheo đạo, giữ phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa, phàm hình, để theo trọn cáichí của Thái Tổ, Thần Tông ta mà giữ được an trị lâu dài.Và cuộc cải cách hành chính đã diễn ra hết sức có hiệu quả.Trước hết, Lê Thánh Tông bỏ hết các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua vàbộ phận thừa hành như Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, khu mậtviện, các tướng quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ... Nếu khi cần phải có ngườithay vua chỉ đạo công việc, thì phải là các đại thần như thái sư, thái phó, thái bảo,thái úy, thiếu sư, thiếu bảo...Tiếp đến, Lê Thánh Tông tách sáu bộ Lại, Lễ, Binh, Hình, Công, Hộ ra khỏiThượng thư sảnh, lập thành sáu cơ quan riêng, phụ trách các hoạt động khác nhaucủa nhà nước. Đứng đầu mỗi bộ là chức thượng thư, hàm nhị phẩm, chịu tráchnhiệm trực tiếp trước vua. Sự cải cách dễ nhận ra nhất là ở bộ Lại, một bộ chịutrách nhiệm tuyển bổ, thăng giáng và bãi miễn các chức quan từ tam phẩm trởxuống. Không như các triều đại trước, bộ Lại không được toàn quyền hành động.Theo nguyên tắc lớn nhỏ cùng ràng buộc lẫn nhau, nếu bộ Lại thăng bổ khôngxứng thì Khoa có quyền bắt bẻ, hoặc tố giác nếu bộ Lại làm sai trái.Trong cuộc cải cách này, Lê Thánh Tông rất đề cao công tác thanh tra, giám sátquan lại. Ngoài Ngự sử đài có từ thời Trần, ông cho đặt sáu khoa chuyên theo dõi,giám sát quan lại ở sáu bộ. Bộ Lễ nghi thức không hợp thì Lễ khoa được phépđàn hặc. Bộ Hộ có Hộ khoa giúp đỡ. Hình khoa có quyền xét lại sự thẩm đoán củabộ Hình....Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến kiến thức thật sự của những người lãnh đạo.Ông bỏ chế độ bổ dụng vương hầu, quý tộc vào các trọng trách của triều đình màlấy thước đo học vấn làm tiêu chuẩn dùng người, không phân biệt thành phần xuấtthân. Các thân vương, công hầu, tuy vẫn được ban bổng lộc nhưng nếu không đỗđạt thì không được đứng trong bộ máy nhà nước.Chỉ riêng với cải cách này, Lê Thánh Tông đã có một tầm nhìn hơn hẳn các triềuđại trước.Bên cạnh bộ máy nhà nước ở trung ương, hệ thống hành chính địa phương cũng cóý nghĩa rất quan trọng với địa vị thống trị của một triều đại. Bởi vì phần đông dâncư tập hợp ở những nơi này. Nếu có một chế độ phù hợp với họ, triều đại sẽ bềnvững vì có sự bảo vệ của chính những người dân ấy.Năm 1466, cùng với việc thành lập các bộ, các tự, Lê Thánh Tông sáng suốt chialại cả nước thành 12 đạo thừa tuyên và một phủ Trung đô (khu vực kinh thành).Năm 1471, ông cho lập thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam. ở cách phânchia mới, mỗi đạo thừa tuyên đều có ba ty ngang quyền nhau cai quản: Đô tổngbinh sứ ty (Đô ty), Thừa tuyên sứ ty (Thừa ty) và Hiến sát sứ ty (Hiến ty). Đô tyvà Thừa ty trông coi về quân sự và dân sự. Hiến ty chịu trách nhiệm thanh tra,giám sát các quan chức địa phương; luôn đi sâu, tìm hiểu đời sống và nguyện vọngcủa nhân dân. Ngoài ra, để giúp Hiến ty làm nhiệm vụ, ở Ngự sử đài, Lê ThánhTông đặt thêm 13 cai đạo giám sát ngự sử chuyên giám sát, giúp đỡ các Hiến ty.Dưới đạo Thừa tuyên, Lê Thánh Tông cho thống nhất các đơn vị hành chính thànhphủ, huyện, châu, xã.Như vậy, khoảng từ năm 1471, thông qua cải cách, Lê Thánh Tông đã tạo được hệthống hành chính thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ thống khá gọn gàng vớichức trách phân minh, bảo đảm sự chỉ đạo và tập trung quyền lực của trung ương.Đây là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến đương thời, trongđó, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực đ ược bảo đảm từ trênxuống dư ...

Tài liệu được xem nhiều: