Lê Thánh Tông – Ông vua “ trọng nông” tiêu biểuTranh thờ vua Lê Thánh Tông ở Thái miếu Lam KinhSau gần 1000 năm Bắc thuộc, đất nước ta đi vào thời kỳ độc lập, tự chủ, từ đó các triều đại trị quốc an dân đều dĩ nông vi bản, có thực mới vực được đạo, thực túc binh cường, bảo vệ giang sơn đất nước. Các triều đại đều có các giải pháp khuyến khích nông gia cày sâu cuốc bẫm, khai khẩn ruộng hoang, vì” “cấy càyvốn nghiệp nông gia”, tấc đất tấc vàng, đi buôn có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Lê Thánh Tông – Ông vua “ trọng nông” tiêu biểu Lê Thánh Tông – Ông vua “ trọng nông” tiêu biểu Tranh thờ vua Lê Thánh Tông ở Thái miếu Lam Kinh Sau gần 1000 năm Bắc thuộc, đất nước ta đi vào thời kỳ độc lập, tự chủ, từ đócác triều đại trị quốc an dân đều dĩ nông vi bản, có thực mới vực được đạo, thựctúc binh cường, bảo vệ giang sơn đất nước. Các triều đại đều có các giải phápkhuyến khích nông gia cày sâu cuốc bẫm, khai khẩn ruộng hoang, vì” “cấy càyvốn nghiệp nông gia”, tấc đất tấc vàng, đi buôn có số, làm ruộng có mùa; Nhấtnước, nhì phân, tam cần, tứ giống; Khuyến cáo nhà nông: Nhất canh trì, nhì canhviên, tam canh điền, nhằm cái đích chung là: “Quốc thịnh dân an”. Tiêu biểu nhất trong các ông vua chăm sóc nghề nông là vua Lê Thánh Tôngcuối thế kỷ 15. Sau khi kế vị vua cha là Lê Thái Tông được chín tháng, tháng 3 năm Tân Tỵ(1461) Lê Thánh Tông đã hạ chỉ: Từ nay về sau, trong hương thôn phải khuyến khích thần dân đều chăn nghềnghiệp sinh nhai, để đủ ăn đủ mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếmchuyện buôn bán, người nào có ruộng đất mà bỏ hoang không cày cấy thì quanquản hạt bắt đem xử tội. Trong lời dụ nhân dịp Tết Ất Tỵ (1485) vua đã dặn: “phải coi trọng để có đủcơm ăn, nhà nhà có bánh chưng ăn Tết, việc ấy cũng quan trọng như việc lễ nghĩađể sửa lòng dân, hai điều ấy là việc cần kíp của chính sự triều đình, là chức phậncủa các quan nuôi dưỡng thần dân”. Sử sách còn ghi lại cứ trên 2 năm 1 lần, nhà vua hạ sắc chỉ về phát triển nghềnông, vì vua coi tăng gia sản xuất lúa khoai là quốc sách. Bất cứ sắc chỉ nào vua ban đều nhắc lệnh cho các quan quản hạt phủ, huyện,châu phải đôn đốc dân luôn đắp sửa đê điều, sửa đường, be bờ giữ nước, dẫn thuỷnhập điền, chăm sóc đồng ruộng, lúa ngô. Vi ên quan nào tuy đốc đủ thuế khoá,nhưng lơ là việc đê điều, đường xá, cản trở việc cày cấy, thu hoạch mùa màng ởhương thôn sẽ không được thăng cấp trong kỳ khảo khoá (xét công để thăng giángquan lại) để răn dạy kẻ coi thường chăn dân để an dân. Trong chiếu lập sở đồn điền ban năm Tân Sửu (1481) vua nói: mở đồn đ iền làđể dùng hết tiềm lực của nghề nông, mở mang nguồn tích trữ cho nhà nước, đểvừa phú dân, vừa thịnh quốc, lợi ích nhiều bề, lệnh cho các xứ định đồn điền th ànhba bậc: thượng, trung và hạ, mấy năm sau vua lệnh cho người ít ruộng mà tìnhnguyện bồi đắp đê, khai khẩn được ruộng thì được quan phủ, huyện xét cấp bằng. Không chỉ chú ý khuyến nông, vua Lê Thánh Tông còn chú ý tới các nghi lễnông nghiệp nơi thôn dã, năm 1458 vua định ra nghi lễ cầu mưa. Các việc dân sựthường ngày như hạn hán mà không cầu mưa, lụt lội mà không tháo nước, việc lợimà không làm ngay, việc hại mà không trừ ngay, tai dị mà không cầu đảo thì phảixử tội “đi đày”. Nhờ các chiếu chỉ thuận ý dân, nên nông nghiệp Đại Việt đã có hệ thống đêđiều, mương máng xây dựng trên quy mô rộng, nhiều vùng đất hoang thành ruộngvườn tươi tốt, nên trong gần 40 năm vua Lê trị vì đã có 12 năm bị hạn hán, lụt lội,sâu phá, dân ta chỉ bị 2 năm đói kém, 4 năm bội thu, thóc lúa đầy bồ. Vua sai đặtcác bài ca vịnh, để ghi lại điềm lành của trời đất, ca ngợi khí tiết nông gia, của đạolàm vua. Trong 38 năm chăm dân trị quốc, không chỉ chú trọng đến việc phát triển nghềnông theo quan điểm thuần nông “phi nông bất ổn”, Lê Thánh Tông còn có cảcuộc đời hoạt động khá sôi nổi trong nhiều lĩnh vực, mặt nào cũng tỏ ra xuất sắc,anh minh, quyết đoán, hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, tinh thông kinh sử, lịchtoán. Chính ông là người đã giải oan cho trung thần Nguyễn Trãi trong vụ án “LệChi Viên” xảy ra năm Nhâm Tuất (1442) 18 năm trước khi ông lên ngôi trị quốc.Chính vì vâỵ ông được coi là vị vua hiền, ông vua toàn tài, có công đưa nước ĐạiViệt đạt tới đỉnh cao thịnh vượng, bờ cõi mở rộng, xã tắc bình an, bên ngoài nểphục. ...