Cuộc Nam chinh mở cõi của Lê Thánh Tông năm 1471 tới đâu
Qua nhiều nguồn sử liệu khác nhau, chúng tôi xin tóm lược diễn biến công cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông như sau:
Tháng 8 năm Canh Dần (1470), Chiêm vương Trà Toàn đem hơn 10 vạn quân thuỷ bộ cùng voi và ngựa chiếm đánh úp Hoá Châu… Nhân cơ hội ấy, vua Lê Thánh Tông huy động trai tráng trong nước từ 15 tuổi trở lên sung quân được 26 vạn, rồi ban sách lược bình Chiêm. Hai tướng Định Liệt và Lê Niệm dẫn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cuộc Nam chinh mở cõi của Lê Thánh Tông năm 1471
Cuộc Nam chinh mở cõi của Lê Thánh Tông
năm 1471 tới đâu
Qua nhiều nguồn sử liệu khác nhau, chúng tôi xin tóm l ược diễn biến công cuộc
Nam chinh của vua Lê Thánh Tông như sau:
Tháng 8 năm Canh Dần (1470), Chiêm vương Trà Toàn đem hơn 10 vạn quân
thuỷ bộ cùng voi và ngựa chiếm đánh úp Hoá Châu… Nhân cơ hội ấy, vua Lê
Thánh Tông huy động trai tráng trong nước từ 15 tuổi trở lên sung quân được 26
vạn, rồi ban sách lược bình Chiêm. Hai tướng Định Liệt và Lê Niệm dẫn 10 vạn
quân do vua thân hành chỉ huy đi sau… Ngày 25 tháng chạp Canh Dần (1470) vua
cho ba quân ăn Tết. Ngày mồng 3 tháng giêng Tân Mão (1471), vua Lê ra lệnh
tiến binh. Ngày mồng 6 tháng giêng Tân Mão (1471), đội quân xung kích của Tiên
phong tướng quân Cang Viễn (Cung Viễn), bí mật đột nhập phòng tuyến Cu Đê tại
triền nam đèo Hải Vân, đánh tan và bắt sống tướng Chiêm thủ giữ Cu Đê là Bồng
Nga Sa… Ngày 27 tháng 2 Tân Mão (1471), hạ thành Thị Nại. Ngày 28 tháng 2
Tân Mão (1471) tiến quân vây kinh thành Chà Bàn (Đồ Bàn); Ngày mồng 1 tháng
3 Tân Mão (1471) hạ được thành Đồ Bàn, bắt sống Chiêm vương Trà Toàn…
Nhằm làm suy yếu, vua Lê chia đất còn lại của Chiêm quốc làm 3 nước nhỏ, đó là:
Tướng Chiêm là Bồ Trì chạy vào Phiên Lung (còn gọi là Phan Lung tức là Phan
Rang), chiếm 1/5 đất đai, dâng biểu xin hàng, nhà vua bèn cho làm vua nước
Chiêm Thành. Đồng thời Thân vương Trà Toại, em Chiêm vương Trà Toàn chạy
vào núi, cũng dâng biểu xin hàng, vua cho làm vua nước Hoa Anh (rất có thể là
vùng đất từ nam Thạch Bi Sơn cho đến Phan Rang). Đến ngày 8 tháng 4 Tân Mão
(1471), tiểu vương Trà Toại cố ý làm phản, vua Lê bèn cử tướng Lê Niệm đem 3
vạn quân vào đánh bắt đưa Trà Toại cùng đồng bọn về Đông Kinh (Thăng Long).
Nước Nam Bàn, nguyên xưa là đất của hai nước Thuỷ Xá và Hoả Xá, bị Chiêm
Thành chiếm cứ (thuộc địa phận vùng Tây Nguyên ngày nay), vua Lê cho hàng
Tướng Ma Ha Bí Sản vốn dòng dõi Chiêm vương Ma Ha Bí Do (1) làm vua… Ba
tiểu quốc này dần dà suy yếu rồi mất hẳn trên bản đồ châu Á.
Ngày 22 tháng 4 Tân Mão (1471), làm lễ tấu cáo ở Thái miếu Lam Kinh và
ngày mồng 1 tháng 5 Tân Mão tổ chức lễ mừng thắng trận tại Đông Kinh (Thăng
Long). Ngày mồng 1 tháng 6 Tân Mão (1471), năm Hồng Đức nhị viên, vua
xuống chiếu lấy đất từ Nam Hải Vân (2) đến Thạch Bi Sơn đặt làm thừa tuyên
Quảng Nam. Đó là thừa tuyên thứ 13 của nước ta thời bấy giờ.
Khi nói về Thạch Bi Sơn, nhiều chính sử chép rằng: Núi này ở phía Đông Nam
phủ Tuy Hoà, năm Tân Mão (1771), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32 đời Duệ Tông
Nguyễn Phúc Thuần, núi này bị sét đánh, đá núi đen đều biến thành trắng xoá, xa
trông như bia đá sững, sắc như vôi đá, chúa (vua) bèn sai quan cầu đảo. Núi này
có nhiều thú dữ nên ít có người dám tới đó. Còn theo sách Thuỷ lục trình chí (ký)
của Trần Công Hiến chép: Núi này cao 708 thước, có một chi chạy sát biển, chia
ra làm hai, có một hòn đá lớn, quay đầu về hướng Đông giống như hình người
vậy. Ngày xưa vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành về ngang qua núi này.
Ngài bùi ngùi than rằng: “Trời đất khai tịch, đã chia cảnh thổ phân minh, kẻ kia
(chỉ Chiêm Thành), nghịch ý trời nên mắc phải thiên hoạ…”. Nhân đó, ngài cho
khắc chữ lên trên phiến đá. Theo sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê
Quang Định (3) thì chép: “Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành mở đất đến
đây, ngài sai mài vách đá trên đỉnh núi, cho khắc chữ để phân chia địa giới với
Chiêm Thành, nên gọi là núi Thạch Bi (Thạch Bi Sơn hay núi Đá Bia). Nay hiện
còn những chữ sứt mẻ mờ lạt, không còn nhận rõ được…. Chỉ nghe khẩu truyền
chữ bia là: “Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong, An Nam quá thử, tướng tru
binh chiết”, nghĩa là “Chiêm Thành qua đấy, quân thua nước mất, An Nam qua
đấy, tướng chết quân tan” (4).
Bởi vậy, từ mấy thế kỷ trước, tại Phú Yên có đền thời vua Lê Thánh Tông, tại
đền có hai câu đối:
Giang sơn khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự
Trở đậu hinh hương thử địa, tinh linh tường ký Thạch Bi cao.
Tạm dịch theo nghĩa xuôi:
- Non sông được mở mang năm nào, nghe các bậc cha ông truyền lại rằng chính
là công của vua Hồng Đức.
- Danh thơm tiếng tốt và sự linh thiêng của xứ này, được khắc ghi rõ ràng trên
đá bia ở đỉnh núi cao.
Sắc vua Lê phong cho tướng Phạm Nhữ Tăng niên hiệu Hồng Đức nhị niên
(bản gốc hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Nam).
Sắc vua Lê phong cho tướng Phạm Nhữ Tăng niên hiệu Hồng Đức nhị niên
(bản gốc hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Quảng Nam).
Điều đặc biệt đáng được các nhà nghiên cứu sử quan tâm nữa là, những năm
gần đây, chúng tôi có cơ may được Bảo tàng tỉnh Quảng Nam sao tặng 2 bản sắc
phong của vua Lê Thánh Tông ban phong cho tướng Phạm Nhữ Tăng vào niên
hiệu Hồng Đức nhị niên (1471) và Hồng Đức bát niên (1477), nguyên bản chữ
Hán được phiên âm và dịch nghĩa. Nội dung bản Hồng Đức nhị niên nói hạ lệnh
cho tướng Phạm Nhữ Tăng lãnh ấn tiên phong, gấp đem 10 đạo tinh binh thuỷ lục
sớm quét sạch ...