Thông tin tài liệu:
Điều này có lẽ liên quan đến việc các chất cơ bản, chất lipid bị loại ra khỏi dung dịch protein enzyme tạo điều kiện tốt cho quá trình kết tinh. 4.2.7. Làm khô và bảo quản chế phẩm protein. Tính cố định cấu trúc của protein được bảo đảm nhờ khả năng liên kết nước của chúng. Nếu dung dịch protein enzyme bị khô ở độ nhiệt trong phòng thì đa số protein enzyme bị biến tính
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình Công nghệ Protein part 8enzyme được dễ dàng, ở những giai đoạn trước đó, người ta thường táchtừng phần các protein enzyme bằng các dung môi hữu cơ. Điều này có lẽliên quan đến việc các chất cơ bản, chất lipid bị loại ra khỏi dung dịchprotein enzyme tạo điều kiện tốt cho quá trình kết tinh. 4.2.7. Làm khô và bảo quản chế phẩm protein. Tính cố định cấu trúc của protein được bảo đảm nhờ khả năng liênkết nước của chúng. Nếu dung dịch protein enzyme bị khô ở độ nhiệttrong phòng thì đa số protein enzyme bị biến tính. Protein enzyme chỉ cóthể được giữ ở dang khô trong trường hợp nếu việc sấy khô được tiếnhành vô cùng nhanh hoặc ở nhiệt độ thấp. Nhiều protein như chúng ta đãbiết, ở độ nhiệt thấp có thể được kết tủa bằng rượu hoặc acetone. Nếu kếttủa thu được bằng cách đó đem xử lý bằng rượu tuyệt đói, bằng acetonehoặc bằng ether và sau đó làm khô thật nhanh thì protein sẽ không bị biếntính. Ở dạng khô, bột protein có thể giữ một thời gian lâu, khi hòa tan nótrong nước nó thể hiện những tính chất ban đầu của mình. Tuy nhiên, nhiều protein không chịu được cách xử lý như vậy. Vìvậy, người ta sử dụng phương pháp làm đông khô là phương pháp làm khôprotein thận trọng nhất, phương pháp này có thể sử dụng được cho hầu hếtprotein. Dung dịch protein đã được thẩm tích được làm đóng băng và làmthăng hoa băng ở áp suất 0,01-0,001 mm thuỷ ngân (được tạo ra nhờ máyhút chân không mạnh). Nơi nước được tạo ra đều được đóng băng trongbầu dự trữ ở độ nhiệt thấp hơn (-70, -80oC). Sau một vài giờ chỉ còn lạibột protein. Sau đó bột này (trong chân không) có thể được giữ ở độ nhiệtcao hơn. Protein đã được làm đông khô bằng cách như thế khi hoà tantrong nước cất sẽ cho dung dịch protein (nguyên thể) ngay sau một vàinăm. Người ta đã bảo quản huyết thanh máu bằng phương pháp như thế,huyết thanh khô này có thể được sử dụng trong mục đích truyền máu. V. Định lượng và đánh giá độ tinh sạch của chế phẩm protein 5.1. Các phương pháp xác định hàm lượng protein Protein sau khi đã được tách chiết và làm sạch có thể định lượngđược. Nếu protein nghiên cứu là enzyme thì việc định lượng thông quaxác định hoạt độ của enzyme (theo quy ước quốc tế: 1 đơn vị hoạt độenzyme là lượng enzyme làm chuyển hoá 1 mol cơ chất trong 1 phút ởcác điều kiện tiêu chuẩn). Như vậy cứ sau các bước tách chiết và làm sạchprotein người ta thấy tổng lượng protein giảm nhưng hoạt độ enzyme tăng 89nghĩa là hoạt độ riêng tăng rất cao. Protein được coi là sạch nếu nhữngbước tách chiết và làm sạch sau không làm tăng hoạt độ riêng của chúngnữa, và chỉ khi đó ta mới hoàn thành việc tách chiết và làm sạch protein.Nếu protein không phải là enzyme thì ta có thể định lượng chúng bằng cácphương pháp khác. Nếu protein ta nghiên cứu là hormon hoặc các độc tốthì chúng được xác định qua hiệu ứng sinh học mà chúng gây ra; ví dụ nhưhormon sinh trưởng (growth hormone) sẽ kích thích sự sinh trưởng củacác tế bào đích nuôi cấy. Nếu là protein vận chuyển thì có thể xác địnhchúng thông qua nồng độ chất mà chúng vận chuyển. Sau đây là một sốphương pháp thường được sử dụng để xác định hàm lượng protein. - Định lượng nitrogen theo phương pháp kjeldahl: Phần lớn các phương pháp gián tiếp xác định protein đều dựa trên cơsở xác định lượng nitrogen. Lượng nitrogen có trong các protein là gầngiống nhau không phụ thuộc vào chất lượng và nguồn protein. Đươngnhiên trên cơ sở lượng nitrogen có thể xác định chỉ các protein đã đượctinh sạch hoặc lượng protein của các mẫu nghiên cứu mà ngoài protein rakhông chứa những chất chứa nitrogen khác. Trong nông nghiệp và côngnghiệp thực phẩm, protein thô được định lượng bằng cách xác định lượngnitrogen toàn phần và kết quả nhân với 6,25, nghĩa là coi protein luôn luônchứa 16% nitrgen. Thực tế, trong thực phẩm, bên cạnh protein còn cónhững chất hữu cơ khác có chứa nitrogen như amid, alcaloid, ammonia (vídụ như trong thực phẩm lên men) acid nitric... do đó hàm lượng nitrogentoàn phần chính thức cao hơn 16% (16-17%) nhưng ở protein thực vật thìhàm lượng này lại thấp hơn 16%. Hệ số 6,25 là hệ số trung bình thô.Trong một vài trường hợp, muốn có kết quả chính xác, nên dùng những hệsố đặc biệt. Nguyên lý của phương pháp này là vô cơ hoá mẫu bằng H2SO4 đậmđặc và chất xúc tác. Dùng một kiềm mạnh (NaOH hoặc KOH) đẩy NH3 từmuối (NH4)2SO4. Sau đó hứng NH3 vào dung dịch acid có nồng độ xácđịnh. Sau đó dùng kiềm có nồng độ xác định để chuẩn độ acid dư. Từ đótính được lượng nitrogen có trong nguyên liệu. - Định lượng protein theo phương pháp Lowry: Phương pháp này dựa trên cơ sở dùng máy đo màu để xác định màusản phẩm khử của phosphomolipden - phosphowolframate (thuốc thửFolin - Ciocalteau) với phức hợp đồng - protein. Phức màu xanh tạo thànhcó thể đo ở bước sóng 675nm. Cường độ màu của hỗn hợp phản ứng tỷ lệthuận với nồng độ protein. Dựa vào ...