Danh mục

Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 523.60 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng Minh Thảo(25/10/1921 - 08/09/2008) Nguyên Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam), Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng, Nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Nguyên Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên. Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất,
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo Hoàng Minh Thảo (25/10/1921 - 08/09/2008) Nguyên Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng Việt Nam), Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng, Nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên, Nguyên Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên. Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất và nhiều huân huy chương cao quý khác. Đặc biệt ông được Nhà nước Việt Nam tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho cụm công trình về Nghệ thuật quân sự.Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo (25 tháng 10 năm 1921 - 8 tháng 9 năm 2008)là một nhà lý luận quân sự củaQuân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy có nhiều năm trực tiếpchỉ huy quân đội, nhưng người ta thường biết đến ông như một nhà nghiên cứu khoa họcquân sự.Quá trình tham gia cách mạngÔng tên thật là Tạ Thái An, sinh ngày 25 tháng 10 năm 1921 tại xã Bảo Khê, huyện KimĐộng, tỉnh Hưng Yên, con ông Tạ Quang Khai và bà Nguyễn Thị Tành. Cha ông là mộttiểu chủ yêu nước làm nghề thợ may, do tham gia phong trào yêu nước nên bị Pháp lùngbắt, vì vậy đã đưa gia đình lên sinh sống tại vùng Tràng Định - Thất Khê (Lạng Sơn).Tuổi thơ ông lớn lên tại vùng rừng núi này.Sau khi hoàn thành lớp nhất (tương đương với lớp 5 hiện nay), ông được cha gửi xuốngHà Nội ở nhờ ông Mai Phúc Tường (hiệu Quảng Thái) ở 29 Hàng Bồ để học tiếp bậctrung học tại trường tư thục Thăng Long[1]. Sau này khi ông Hoàng Minh Thảo hoạt độngcách mạng đã được gia đình ông Mai Phúc Tường che giấu hoạt động. Cũng trong quãngthời gian này, trong những lần về Lạng Sơn nghỉ hè, ông giác ngộ cách mạng qua nhữngđợt tham gia buổi tuyên truyền của Đảng. Năm 1937, Tạ Thái An được xếp vào danhsách cảm tình Đảng tại cơ sở Đảng ở Lạng Sơn và tham gia Đoàn thanh niên dân chủ củaĐảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lấy bí danh hoạt động là Tạ Quang. Năm 1941, ôngtham gia Việt Minh, rồi được cử đi học quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc.Cuối năm 1944, ông tham gia gây dựng cơ sở chính trị và xây dựng lực lượng du kích ởvùng biên giới Lạng Sơn.Sau khi về nước, ngày 7 tháng 1 năm 1945, tham gia Ban phụ trách công tác biên giớicủa Tổng bộ Việt Minh, Ủy viên dự khuyết Tỉnh ủy lâm thời Lạng Sơn. Ngày 3 tháng 3năm 1945, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia giành chính quyền ởLạng Sơn. Cái tên Hoàng Minh Thảo ra đời trong thời gian này và gắn bó với ông chođến tận cuối đời.Chỉ huy quân độiSau khi Cách mạng tháng Tám thành công, từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1949, ông làphái viên của Bộ Quốc phòng ở các tỉnh duyên hải tả ngạn sông Hồng, Khu trưởng Chiếnkhu III, Phó tư lệnh Liên khu III. Năm 1948, ông được phong quân hàm Đại tá Quân độiQuốc gia Việt Nam trong đợt phong hàm đầu tiên.Từ 1949-1950, ông làm Tư lệnh Liên khu 4.Sau Chiến dịch Biên giới 1950, các đại đoàn quân chính quy được thành lập. Ông đượcbổ nhiệm làm Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 304 (1950-1954).Tham gia giảng dạySau năm 1954, ông được phân công công tác đào tạo cán bộ quân sự, xây dựng Học việnQuân sự. Ông giữ chức vụ Hiệu trưởng Học viện Quân sự liên tục từ 1954 đến 1966 (naylà Học viện Lục quân Đà Lạt). Năm 1962, ông nghiên cứu ở Học viện Quốc phòng BắcKinh. Sau này có học bổ túc quân sự ở Liên Xô (cũ). Ông thông thạo tiếng Pháp, tiếngTrung quốc.Trở lại chiến trườngTừ tháng 11 năm 1966, ông được điều vào Nam giữ chức Phó tư lệnh Mặt trận TâyNguyên. Chính qua trận đụng độ giữa Quân giải phóng Miền Nam và quân Mỹ tạiIađrăng mà ông đã ghi nhận lại được những nguyên tắc quan trọng giúp Quân giải phóngMiền Nam giành được một số lợi thế khi giao chiến với một đối phương có ưu thế tuyệtđối về hỏa lực và cơ động.Năm 1968, ông là Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên. Tháng 8 năm 1974, ông giữ chức Phótư lệnh Quân khu V; tháng 3 năm 1975, là Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên.Sau ngày thống nhất đất nướcSau 1975, từ tháng 5 năm 1976 đến 1989, ông trở lại giữ chức Viện trưởng Học viện Lụcquân Đà Lạt (1976-1977), Viện trưởng Học viện Quân sự Cấp cao(1977-1989, naylà Học viện Quốc phòng Việt Nam), năm 1987, kiêm Phó chủ tịch Hội đồng Khoa họcQuân sự Bộ quốc phòng.Từ năm 1990, ông là Viện trưởng Viện Chiến lược Quân sự, Bộ Quốc phòng ViệtNam và giữ chức vụ này cho đến khi nghỉ hưu (1995).Ông qua đời lúc 8 giờ sáng ngày 8 tháng 9 năm 2008Công lao đóng gópNgoài nắm giữ các chức vụ Tư lệnh các chiến dịch quan trọng, quản lý các Học việnquân sự, ông còn là một người thầy của nhiều thế hệ tướng lĩnh quân đội, một nhà nghiêncứu lịch sử quân sự và lý luận quân sự xuất sắc ở tầm chiến lược.Ông được phong Giáo sư ngành Khoa học quân sự năm 1986, Nhà giáo nhân dân năm1988.Ông được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1959, Trung tướng năm 1974, Thượngtướng năm 1984.Ông là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Hội đồng Quốcgia Chỉ đạo Biê ...

Tài liệu được xem nhiều: