Thông tin tài liệu:
TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNGTác giả: Lê Mạnh Phát 11. LỜI DẪN Phần thơ văn Trần Nhân Tông sẽ chia làm sáu bộ phận. Đó là thơ, phú, bài giảng, ngữ lục, văn xuôi và văn thư ngoại giao.1. ThơVề thơ, chúng tôi dựa chủ yếu vào Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và Chu Xa sưu tầm vào giữa những năm 1434-1443 và được cả thảy 26 bài, kể luôn cả bài Ngự chế trúc nô minh ở phần Phụ lục. Trong số 26 bài này, bài Hạnh Thiên Trường phủ được chua “đã thấy ở Quốc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNG -1 TÁC PHẨM TRẦN NHÂN TÔNG Tác giả: Lê Mạnh Phát 1 1. LỜI DẪN Phần thơ văn Trần Nhân Tông sẽ chia làm sáu bộ phận. Đó là thơ, phú, bàigiảng, ngữ lục, văn xuôi và văn thư ngoại giao. 1. Thơ Về thơ, chúng tôi dựa chủ yếu vào Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và Chu Xasưu tầm vào giữa những năm 1434-1443 và được cả thảy 26 bài, kể luôn cả bàiNgự chế trúc nô minh ở phần Phụ lục. Trong số 26 bài này, bài Hạnh ThiênTrường phủ được chua “đã thấy ở Quốc sử”. Nhưng bây giờ ta khảo lại trongĐVSKTT 5 tờ 58a9-b3 thì bài thơ ấửy được ghi do Thượng hoàng Trần ThánhTông làm. Vậy Quốc sử đây là chỉ bộ Đại Việt sử ký do Phan Phu Tiên chấp bút.Ngô Sĩ Liên, khi viết ĐVSKTT về triều nhà Trần, nếu có sự việc nào chép khácvới Phan Phu Tiên, thì đều ghi rõ. Thế mà, bài Hạnh Thiên Trường phủ này lạikhông thấy Ngô Sĩ Liên có ghi chú gì khác cả. Thêm vào đó, nếu căn cứ vào Namông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, đây đúng là bài thơ của Trần Thánh Tông.Từ đó, dù Việt âm thi tập đã chép bài Hạnh Thiên Trường phủ ấy vào thơ của TrầnNhân Tông, chúng tôi vẫn để riêng ra và xếp vào thơ của vua Trần Thánh Tông.Vậy Việt âm thi tập sưu tầm được 25 bài. Ngoài 25 bài thơ của Việt âm thi tập, Hồ Nguyên Trừng trong Nam ông mộnglục có ghi lại cho ta 4 bài thơ. Bài làm trong khi ăn yến với Văn Túc Vương TrầnĐạo Tải có chép trong Việt âm thi tâp dưới tên Dự Văn Túc Vương yến. Còn bài Vịnh mai, thì trong Việt âm thi tập, là bài thứ nhất của hai bài thơ biếtdưới tên Tảo mai. Còn lại hai bài tứ tuyệt với nhan đề Sơn phòng mạn hứng lànhững đóng góp mới của Nam ông mộng lục. Như vậy, Nam ông mộng lục ghi lạiđược thêm hai bài thơ nữa của vua Trần Nhân Tông. ĐVSKTT, ngoài bài Dự VănTúc Vương yến vừa kể, chỉ ghi thêm được 2 đoạn phiến. Một đoạn phiến là haicâu thơ vua Trần Nhân Tông ghi ở cuối thuyền, khi quân ta rút từ Nội Bàng vềVạn Kiếp hội quân vào tháng chạp năm Giáp Thân (1285): Cối Kê cựu sự quân tu ký Hoan Ái do tồn thập vạn binh. Đoạn phiến kia do vua Trần Nhân Tông cảm xúc làm ra, khi đem các tướng giặcÔ Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn, Tích Lệ Cơ.v.v.. đến dâng trước lăng vua TrầnThái Tông và thấy “chân ngựa đá ở lăng đều lấm b ùn” vào tháng 3 năm Mậu Tý(1288) Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu Bên cạnh hai đoạn phiến này, An Nam chí lược 17 tờ 159 còn trích hai câu: Tự cố bất tài tàm tứ thổ Chỉ duyên đa bệnh khuyết triều thiên trong bài thơ thất ngôn bát cú, mà vua Trần Nhân Tông làm để họa lại bài thơcủa Lý Tư Diễn trong buổi yến đãi y vào năm 1289. Sau khi ghi hai câu này, AnNam chí lược viết tiếp: “Ngay nơi tiệc tiếp vần” (tức tịch thứ vận), rồi chép bàiĐường luật sau: Vũ lộ uông dương phổ Hán ân Phụng hàm đan chiếu xuất hồng vân Thác khai địa giác giai hòa khí Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần Tận đạo tỷ thư thập hàng hạ Thắng như cầm điện ngũ huyền huân Càn khôn kiêm ái vô nam bắc Hà hoạn vân lôi phục hữu tuân (Ơn Hán tràn trề mưa móc tuôn Chiếu son phượng ngậm khỏi mây hồng Khí hòa góc đất đều lan tới Bụi chiến sông trời rửasạch trơn Thảy bảo thư vua mười lối viết Còn hơn đàn Thuấn năm dây đờn Đất trời thương hết không nam bắc Sấm sét sao lo lại khốn thân) Căn cứ vào văn mạch của An Nam chí lược, thì đây đúng là bài thơ của vuaTrần Nhân Tông. Chỉ có điều, quyển 17 chỉ dành để chép thơ của những ngườiTrung Quốc đi sứ nước ta, nên bài này bản dịch của viện Đại học Huế năm 1961đã coi là của Lý Tư Diễn. Tất nhiên, truyền bản của An Nam chí lược đôi khi cũngcó những sai sót, như trường hợp cắt văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tôngviết cho Hốt Tất Liệt vào năm Chí Nguyên 30 (1293) thành hai văn thư khác nhau,như ta sẽ trình bày dưới đây. Vì thế, bài thơ vừa dẫn chúng tôi vẫn coi l à của vuaTrần Nhân Tông. Tiếp đến là bài thơ làm tại chùa hương Cổ Châu và bài kệ Thịtịch của vua Trần Nhân Tông ghi trong Thánh đăng ngữ lục tờ 26a3 -4 và 28 a2 -4: Thế số nhất tức mặc Thời tình lưỡng hải ngân Ma cung hồn quản thậm Phật quốc bất thăng xuân (Số đời một hơi thở Tình người đôi biển ngân Cung ma chật hẹp lắm Nước Phật khôn xiết xuân) Nhất thiết pháp bất sinh Nhất thiết pháp bất diệt Nhược năng như thị giải Chư Phật thường hiện tiền Hà khứ lai chi hữu (Hết thảy pháp không sinh Hết thảy pháp không diệt Nếu hay hiểu như vầy Chư Phật thường trước mặt Đến đi sao có đây) và bài kệ Truy tán Tuệ Trung Thượng Sĩ của vua Trần Nhân Tông trongThượng Sĩ ngữ lục 43a2-4: Vọng chi di cao Toản chi di kiên Hốt nhiên tại hậu Chiêm chi tại tiền Phù thị chi vị Thượng Sĩ chi thiền (Nhìn lên càng cao Dùi càng thêm cứng Chợt ở phía sau Thấy liền trước đứng Cái đó gọi là Thiền Thượng Sĩ vững) Cuối cùng là bài kệ Thân như do Thiền tông bản hạnh 15b4-5 chép: Thân như hô hấp tỡ trung khí Thế tợ phong hành lĩnh ngoại v ...