Danh mục

VĂN THƯ NGOẠI GIAO TRẦN NHÂN TÔNG 6

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 134.63 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

VĂN THƯ NGOẠI GIAO TRẦN NHÂN TÔNG 6Tờ biểu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295) Năm Nguyên Trinh thứ nhất, thế tử An Nam, Trần, dâng biểu mừng hoàng đế Thành Tông lên ngôi. Rồng bay chín lớp, trên ngôi rồng trở lại trời xuân. Ngựa ruổi ngàn non, trước cửa ngọc kính dâng biểu tạ. Một người có phúc, muôn nước đều yên. Kính nghĩ, hoàng đế bệ hạ văn trị ngời sáng bên trong, lòng nhân bay khắp hải ngoại, xa thương gần mến, thường giữ đạo để làm lòng, dẹp võ dụng văn, cất khí giới mà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
VĂN THƯ NGOẠI GIAO TRẦN NHÂN TÔNG 6 VĂN THƯ NGOẠI GIAO TRẦN NHÂN TÔNG 6Tờ biểu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)Năm Nguyên Trinh thứ nhất, thế tử An Nam, Trần, dâng biểu mừng hoàng đếThành Tông lên ngôi.Rồng bay chín lớp, trên ngôi rồng trở lại trời xuân. Ngựa ruổi ngàn non, trước cửangọc kính dâng biểu tạ. Một người có phúc, muôn nước đều yên. Kính nghĩ, hoàngđế bệ hạ văn trị ngời sáng bên trong, lòng nhân bay khắp hải ngoại, xa thương gầnmến, thường giữ đạo để làm lòng, dẹp võ dụng văn, cất khí giới mà không đánh,quyết mở rộng lòng lành thăm thẳm của vua ta, muốn sáng tỏ công lao rực rỡ củatiên tổ. Dẹp sấm sét để ra ơn mưa móc, cắt đất phong để tỏ l ượng càn khôn, cùngdân đổi mới, theo vật gầy xuân.Bọn thần may mắn gặp thời sáng sủa, mừng vui nghe lịnh sâu xa. Trông trời bắckhuyết, lòng xiêu theo sao Bắc cực ngôi cao, giữ đất Nam hoang, nguyện chúc vuaNam Sơn thượng thọ.Tờ biểu xin Đại Tạng kinhHọ Trần nước An Nam dâng biểu xin Đại Tạng kinh:Thần ở Viêm hoang, lâu theo đấng Giác, mãi nhớ bối diệp, truyền tự Trung Hoa.Vào thời Đường Tống, từng có ngựa trắng chở sang. Ngày đại binh kéo đến thì đãhóa nên tro tàn. Thở than chẳng thấy văn kinh, ý sâu rốt cuộc khó tìm, như vàonhà tối mà không đuốc tuệ, như vượt bể khổ mà thiếu thuyền từ. Nghĩ đến tiểuquốc thiếu kinh Đại Tạng, nếu không cầu thỉnh ở thượng quốc, thì lấy đâu mở lốicho quần sinh.Kính nghĩ, hoàng đế bệ hạ là vua Nghiêu Thuấn đương thời, là Phật Thích Ca táithế, lấy sự độ người giúp vật làm tâm, cho việc rộng ban cứu chúng là lòng. Tiếngngọc may không giữ kín, tạng báu mong được mở toang. Từ trời mà xuống, bancho một vạn năm trăm ngàn hơn cuốn kinh, vượt biển về nam, cứu ức triệu ngườidân khốn khổ. Công đức ấy hơn công đức trước, quảng đại vô biên. Thánh nhânnay là thánh nhân xưa, lưu truyền có thế.NGUYÊN BẢNThơPhúBài giảngNgữ lụcVăn xuôiVăn thư ngoại giao-Yamamoto Tatsuro, Annamshi kenkyu, I, Tokyo: Yamakawa shuppansha, 1950,tr. 1 - 43.-Lê Mạnh Thát, Thánh đăng ngữ lục, Tu thư Vạn Hạnh, 1980.-Lê Mạnh Thát, Chân Nguyên Thiền sư toàn tập, I, Viện Phật học Vạn Hạnh, Tp.Hồ Chí Minh,1980.-E. Gaspardone, Ngan-nan Tche Yuan, Hanoi: Imprimarie d’Extrême -Orient,1932, p. 47.1 Câu này có thể dịch: “ Tri Kiến là huyện Kiến xưa”. Kiến do thế cóthể là một lên gọi địa phương của Tri Kiến.-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, I, Nxb. Thuận Hóa, 1999, tr. 574 -578.-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, I, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. HồChí Minh, 1999,tr. 428.-Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Sai gòn: Lá bối, 1974, tr. 377.[1] Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Tu thư Đạihọc Vạn Hạnh 1972, tr.254-321; Khương Tăng Hội toàn tập, I, Tu thư Đại họcVạn Hạnh 1975, tr.172-188.-Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, NXB Thuận Hóa 1999, tr. 474- 490.-Lê Mạnh Thát, Kiến tính thành Phật lục, trong Chân Nguyên thiền sư toàn tập, Tuthư Đại họcVạn Hạnh,1982, tr. 72.-Lê Mạnh Thát , Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Tu thư Đạihọc Vạn Hạnh,1972,tr.264-271-Lê Mạnh Thát, Tuệ Trung thượng sĩ toàn tập, cảo bản, 1979-Trần Lê Sáng, Tìm hiểu văn phú thời kỳ Trần - Hồ trong Tuyển tập 40 năm tạpchí Văn học,1960 - 1999,tập 2, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 231 -232-Lê Mạnh Thát, Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999 ,tr. 239 và 481-482.-Ông Nguyễn làng Cổ Đô, tức chỉ Nguyễn Bá Lân (1701-1785), nguyên người xãCổ Đô, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây cũ, đậu tiến sĩ năm 1731, làm quan đếnchức Thượng thư tước Lễ Trạch Hầu, có biệt tài về phú Nôm, tác phẩm có Ngã bahạc phú, Giai cảnh hứng tình phú và Vịnh sử thi quyển. Bản hạnh viết về HuyềnQuang hiện chưa tìm thấy.-Đặng Thai Mai, Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, trong Thơ văn Lý -Trần, I, Hà nội:Nxb.KHXH, 1977, tr. 42.-Xem Lê Mạnh Thát, Viên Thái thiền sư toàn tập, Sai gòn: Tu thư Vạn Hạnh,1977.-Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Sài gòn: Lá bối, 1974, tr. 397-398.-Viện Triết học, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Hà Nội: Nxb. KHXH, 1991, tr. 224.-E. Gaspardone, Bibliographie Annamite, Bulletin de l’École Fran ổaised’Éxtrême- Orient XXXII(1932) 144-Thượng sĩ Huệ Trung, Ngữ lục, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1969,tr. 175.-Dấu: yêu dấu1 Mựa chớ2 Giấy, sồi: các loại vải xấu3 Chỉn:chỉ, chính4 Cốc: biết5 Thửa: biết6 Xá: hãy, nên-Đồ: uổng-Nguyên chú:Hỏi: “Chân như là cái gì?”Đáp: “Trong lắng sáng tròn rực thái hư”Lại hỏi: “Bát nhã là gì?”Đáp: “Nguồn gốc trí tuệ tự mình”.Lại hỏi: “Chân Phật là gì?”Đáp: “Đương cơ đối đáp là ai?”Lại hỏi: “Chân kinh là gì?”Đáp: “Đương cơ nêu lên quá rõ ràng”.Lại hỏi: “Thế nào là truyền giao?”Đáp: “Thầy trò bốn mắt nhìn nhau.”Lại hỏi: “Hiểu ý là thế nào?”Đáp: “Trở về nguồn gốc không bàn nghĩ.Nếu có bàn nghĩ thì sa ngã thô ...

Tài liệu được xem nhiều: