Danh mục

Thăm di tích lịch sử: Đền Hoàng Bà (Hưng yên)

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 151.94 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Từ trung tâm thành phố Hưng Yên, xuôi theo đê sông Hồng về phía đông khoảng 3km, ta sẽ thấy một ngôi đền toạ lạc trên gò đất cao, quay về hướng đông nam. Bên phải là dòng sông Hồng cuộn chảy, bên trái là con đê bao quanh như một bức tường thành.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thăm di tích lịch sử: Đền Hoàng Bà (Hưng yên)Thăm di tích lịch sử: Đền Hoàng Bà (Hưng yên)Từ trung tâm thành phố Hưng Yên, xuôi theo đê sông Hồng về phía đông khoảng3km, ta sẽ thấy một ngôi đền toạ lạc trên gò đất cao, quay về hướng đông nam. Bênphải là dòng sông Hồng cuộn chảy, bên trái là con đê bao quanh như một bức tườngthành. Phía trước là cánh đồng, phía sau là xóm làng, thấp thoáng nhà mái ngói,mái bằng trong những vườn nhãn xum xuê xanh mướt. Đó là đền thờ Hoàng Bà, xãQuảng Châu (thành phố Hưng Yên).Đền được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đãcó công lao to lớn, cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định, giành lại độc lập cho đấtnước. Theo ngọc phả còn được lưu giữ tại đền, Trần Mã Châu hay còn được gọi là ChâuNương, con gái bộ chúa Trưởng Quan, ở đất Nam Xương (Hà Nam). Tuy là nữ nhi nhưngbà có chí khí như các bậc nam nhi, dũng lược đa mưu, tính cách phi thường. Sống trongcảnh nước mất nhà tan, nhân dân đau đớn quằn quại dưới gót giày quân xâm lược phươngBắc, cha của Châu Nương cũng bị chúng sát hại. Nung nấu trong lòng ý chí đền nợ nước,trả thù nhà, bà đã cắt tóc giả làm ni sư, đi khắp các chùa để chiêu mộ anh hùng hào kiệt,cùng đứng lên giết giặc cứu nước. Chùa làng Bảo Châu, nay thuộc xã Quảng Châu, là nơiđược bà chọn làm căn cứ chiêu tập quân sĩ. Ái mộ đức cao tài rộng của Châu Nương,nghĩa sĩ quanh vùng đều về tụ hội. Ngay những ngày đầu Bảo Châu đã có nam tướng, nữtốt được hơn 200 người. Ban ngày tụng kinh niệm Phật, ban đêm luyện tập binh pháp,quyết chiến với Tô Định. Sau khi được Trưng Trắc, Trưng Nhị thâu nạp, đón về để cùngđánh đuổi Tô Định. Thoả ý nguyện, Châu Nương trở về chốn cũ, chọn nơi hiểm yếu, thiếtlập danh đồn tiếp tục chiêu mộ quân sĩ khắp nơi. Trong 3 tháng, quân tinh nhuệ đã lên tới1.300 người. Châu Nương liền đem hùng binh tiến đến sông Hát Giang, yết kiến TrưngNữ. Trưng Nữ vô cùng phấn khởi, liền giao cho Châu Nương làm thống quản 1000 kị mã,kiêm hành vệ quan tham tán mưu sự. Sau khi đánh đuổi được quân Nam Hán, Trưng Nữlên ngôi hoàng đế, phong cho Mã Châu làm “Trưởng binh Nội các trung cung nội thị”,tặng thưởng kim ngân 100 hốt, gấm lụa 500 vuông và thuận cho đất Bảo Châu (nơi MãChâu cư ngụ) làm lăng đền phụng sự sau khi nữ tướng qua đời. Tạ ơn vua, Châu Nươngxin được trở về hương quán, thăm hỏi họ hàng thân thuộc, bái tạ gia đường tổ tiên. Xongviệc bà trở về Bảo Châu nơi đồn cũ, nhân dân, hào mục nồng nhiệt đón mừng. Bà nói vớimọi người rằng: “Nhờ công đức của nhân dân mà thành đạt, dù một ngày ân nghĩa cũngsâu nặng. Thật đáng khen dân ta phong tục thuần hậu lắm thay!”. Lại ban thưởng vàngkim 60 hốt chia cho dân để ngày sau tu sửa đền miếu. Truyền quân sĩ mổ bò, lợn khaothưởng nhân dân.Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta. TrầnMã Châu được lệnh ra quân quyết chiến với giặc. Quân giặc bao vây tứ phía. Trên mìnhngựa, tay cầm song kiếm, bà tả xung hữu đột, thấy giặc ngổn ngang. Được nửa ngày, gióthổi làm lộ thân hình, tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh”khiến bà lúng túng, bị thương, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Đó là ngày 3/3năm Ất Mùi (năm 43 sau CN). Dân làng nơi đây đã lập đền thờ, tế lễ để ghi công đức củaHoàng Bà. Cảm phục và thương xót bậc lương thần đã quên mình vì nước, Trưng Vươngtruy phong cho Bà là “Thượng đẳng Phúc thần” và chuẩn phê cho làng Bảo Châu là nơiđền chính, phụng sự tế tự.Tương truyền đền Hoàng Bà rất linh thiêng. Các triều đại nối tiếp về sau đứng lên dẹpgiặc, gây dựng cơ đồ đều được Châu Nương linh thiêng hiển ứng, âm phù giúp nước, nênlại được phong: “Thượng đẳng tối linh anh linh hiển ứng” . Đến nay đền còn giữ được 7sắc phong qua các triều đại. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thụcmĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Gần đây nhất là triều Khải Định năm thứ 4(tháng 7 năm 1919), sắc phong cho Bà là: “Trinh tĩnh Trung đẳng thần”.Suốt chiều dài lịch sử, trải bao biến cố thăng trầm, đối diện với thiên nhiên dữ dội vàkhắc nghiệt, đền Hoàng Bà đã nhiều lần phải trùng tu tôn tạo, song vẫn luôn giữ được nétxưa; uy nghi, giản dị, thanh tao. Hiện đền còn giữ được khá nhiều hiện vật quý giá, như:kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu Bà, đại tự, hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức Hoàng Bàvới nhiều nội dung sâu sắc. Cung đệ nhị ngoài tiền đường là bức đại tự gồm bốn chữ: “TừQuang Phả Bị” (nghĩa là: Nàng phi phàm này đã quy Phật có ánh từ quang chiếu khắp,phổ độ 4 cõi). Cũng tại đây có đôi câu đối: “Quốc xỉ phục thù Tô thủ tội, chung dungnhất kiếm – Nhân thần nữ kiệt Trưng Vương danh cộng thám thiên hoa”. (Nghĩa là: Rửahận Cha, thẹn thùng mất nước, tên Tô Định tham tàn, muốn tìm ngươi cho một nhát kiếm– Người là bậc thần và người nữ oanh kiệt thời Trưng Vương nổi tiếng, tham mưu danhluận, nghìn vẻ dáng như hoa). Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗquý rất đẹp từ thời Bà còn sống, đúng như lời một đôi câu đối ca ngợi: “Bảo sắc đằngkhông lâm Việt địa – Kim dung phóng diệu chiếu Nam thiên”. ( Nghĩa là: Sắc đẹp đã tônmàu vẻ bay khắp không trung, chọn nơi giáng sinh là đất Việt – Hình dung vàng ngọcchiếu khắp trời Nam, toả ra nhiều nét thiêng).Năm 1997, đền Hoàng Bà đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấpquốc gia. Hàng năm, đền mở hội từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Con em quêhương ở khắp mọi nơi cùng khách thập phương nô nức về dự hội, tưởng nhớ người nữtướng anh hùng của dân tộc và ôn lại truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta. Phầnlễ, sau khai mạc của ban tổ chức vào sáng mồng 1, là các đoàn tế trong và ngoài xã dânghương, theo đó là cán bộ nhân dân các thôn, các dòng họ cùng khách thập phương dânglễ, chiêm bái nhất tâm nguyện cầu cho mưa hoà, gió thuận, mùa màng tốt tươi, bốnphương vô sự, nhân dân ấm no hạnh phúc. Phần hội có các trò chơi dân gian, như: chọigà, cờ tướng, múa gậy, đánh đu, giao lưu văn nghệ với nhiều tiết mục ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu cùng danh mục:

Tài liệu mới: