Danh mục

102 Bí quyết trong TMĐT (Ph ần 3)

Số trang: 22      Loại file: doc      Dung lượng: 197.00 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nói chung, những giao dịch giữa các doanh nghiệp (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và giao dịch giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng có sự khác nhau. Khi một doanh nghiệp chuyên nghiệp và một người tiêu dùng đạt được một thoả thuận nào đó thì trong vấn đề chọn luật áp dụng, các bên có liên quan không thể xuất phát từ những đạo luật công của nước người tiêu dùng bởi vì những đạo luật đó bảo vệ người tiêu dùng.......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
102 Bí quyết trong TMĐT (Ph ần 3) 102 Bí quyết trong TMĐT (Ph ần 3) 41. Đạo luật quốc gia nào sẽ điều chỉnh những giao dịch điện tử xuyên quốc gia giữa người bán và người mua? Mỗi cuộc giao dịch xuyên quốc gia đều phát sinh vấn đề luật áp dụng. Luật áp dụng là đạo luật mà các bên  tham gia hợp đồng lựa chọn để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hợp đồng hoặc đạo luật sẽ được áp dụng   khi các bên không chọn trước luật cụ thể. Nói chung, những giao dịch giữa các doanh nghiệp (doanh nghiệp với doanh nghiệp) và giao dịch giữa doanh  nghiệp với người tiêu dùng có sự khác nhau. Khi một doanh nghiệp chuyên nghiệp và một người tiêu dùng đạt  được một thoả thuận nào đó thì trong vấn đề chọn luật áp dụng, các bên có liên quan không thể xuất phát từ  những đạo luật công của nước người tiêu dùng bởi vì những đạo luật đó bảo vệ người tiêu dùng. Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp Các bên có liên quan có quyền quyết định những vấn đề của hợp đồng là một nguyên tắc chung được mọi  người công nhận. Điều đó có nghĩa là các bên được tự do lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng. Nguyên tắc này  đã được tất cả các nước công nhận (trừ một số ngoại lệ như Bơrêdin áp dụng Luật dân sự Bơrêdin năm 1842  trong trường hợp có xung đột về pháp luật). Công ước Rome ngày 19 tháng 6 năm 1980 về luật áp dụng cho  các nghĩa vụ của hợp đồng cũng qui định như vậy. Nếu các bên không ghi rõ luật nào sẽ được áp dụng cho hợp đồng thì tổ chức xét xử (toà án quốc gia hoặc tổ  chức trọng tài) chịu trách nhiệm giải quyết vụ việc đó sẽ phải quyết định luật áp dụng. Mỗi quốc gia có những   qui tắc hướng dẫn việc chọn luật, nhưng một trong hai qui tắc sau đây đã được cộng đồng quốc tế sử dụng: ­ Luật áp dụng là luật của nước người bán (bên cung cấp dịch vụ) qui định trong hợp đồng) ­ Luật áp dụng là luật của nơi ký hợp đồng Ngoài ra, một số công ước hoặc qui tắc quốc tế cũng có những qui định cụ thể về giao dịch quốc tế. Như: + Công ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Viên, ngày 11 tháng 4 năm 1980). + Những nguyên tắc pháp lý thống nhất (UNIDROIT) về hợp đồng thương mại quốc tế, 1994. Hai văn bản nói trên và những văn bản quốc tế khác thuộc loại này đều có thể được các bên lựa chọn để điều  chỉnh hợp đồng và giải quyết những tranh chấp phát sinh trong các quan hệ liên quan đến hợp đồng. 42. Trong trường hợp có tranh chấp, toà án nào sẽ xét xử một hợp đồng xuyên quốc gia được thoả thuận bằng hệ thống điện tử? Một vấn đề được đặt ra khi có tranh chấp là toà án quốc gia hay tổ chức trọng tài sẽ thụ lý vụ việc đó. Khi trong hợp đồng không có điều khoản về việc một toà án hoặc tổ chức trọng tài cụ thể nào sẽ thụ lý tranh  chấp thì toà án quốc gia sẽ quyết định liệu họ có quyền xét xử vụ việc theo luật quốc gia của họ không. Do đó,  cần nhấn mạnh rằng, để bảo đảm an toàn và khả năng xử lý những tình huống có thể xảy ra, bạn và đối tác   của bạn cần ghi rõ trong hợp đồng là toà án nào hoặc tổ chức trọng tài nào sẽ giải quyết vụ việc khi tranh chấp   xảy ra. Tuy nhiên, cần nói rằng hiệu lực của một điều khoản như vậy còn phụ thuộc vào luật quốc gia. Thí dụ ở  Pháp, một điều khoản như vậy sẽ không có hiệu lực giữa các bên không phải là doanh nghiệp, trừ trường hợp  hợp đồng đó mang tính quốc tế. Một điều khác cần nhắc nhở trong vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng và các bên kinh doanh cần qui định rõ  trong hợp đồng rằng luật nào sẽ được áp dụng khi tranh chấp xảy ra. Trong kinh doanh quốc tế, việc áp dụng điều khoản trọng tài là một nhu cầu thực tế thường xảy ra vì nó tránh  được việc khởi kiện bên toà án quốc gia và việc thực thi những qui định quốc gia về thủ tục xét xử, điều mà ít  nhất là một trong hai bên không thành thạo. Hơn nữa, phương thức trọng tài và phương thức đã được quốc tế   thừa nhận. Thí dụ công ước New York năm 1958 về việc thừa nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước  ngoài, đã được 120 nước phê chuẩn đã thừa nhận phán quyết trọng tài cũng có hiệu lực như phán quyết của  toà án quốc gia. Phương thức trọng tài có thể không phải là luôn luôn cần thiết ở những nước đã ký kết hiệp ước qui định toà án  nào sẽ thụ lý vụ việc và thừa nhận phán quyết của toà án quốc gia. Thí dụ ở Châu Âu, công ước Bơrutxen ngày   27 tháng 9 năm 1968 và công ước Lugano ngày 16 tháng 9 năm 1988 qui định toà án có quyền thụ lý vụ việc là  toà án ở nơi cư trú của bên bị kiện, hoặc toà án của nước mà hợp đồng thực hiện ở đó, hoặc toà án của nước bị  thiệt hại, chủ đề của sự tranh chấp. Tuy nhiên, ở nhiều nước còn đồng ý với công dân của họ về quyền đưa   tranh chấp ra toà án quốc gia của họ (trong trường hợp hợp đồng không qui định toà án hoặc tổ chức trọng tài  nào sẽ xử lý vụ việc). Cũng cần phải nói rằng, một dự thảo công ước về quyền phản xét và xét xử đối ngoại đối với các vụ việc dân  sự và thương mại đã được hội nghị Hague về tư pháp quốc tế (Tháng 10/1999) nghiên cứu và một dự thảo qui   chế Châu Âu ngày 14/7/1999 về quyền xét xử tranh chấp cũng đã được đệ trình bên Hội đồng Châu Âu. 43. Làm thế nào để bảo đảm rằng một thỏa thuận đạt được qua hệ thống điện tử sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Khi các bên thảo luận một hợp đồng thương mại qua hệ thống điện tử; hợp đồng đó sẽ được thiết lập bằng cách  một bên đưa ra lời chào hàng và bên kia chấp nhận lời chào hàng. Việc trao đổi sự thỏa thuận đó sẽ tạo ra hiệu  lực pháp lý của hợp đồng mà không cần hai bên thực hiện một hình thức nào khác, trừ trường hợp pháp luật đòi  hỏi hợp đồng phải được viết theo một khuôn mẫu cụ thể (thí dụ trường hợp mua bán tài sản, nhà) hoặc trường   hợp luật pháp quốc gia đòi hỏi hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản (thí dụ trường hợp mua bán doanh  nghiệp, vận đơn đường biển). Tuy nhiên, đối với những giao dịch hàng ngày, vấn đề pháp lý chủ yếu là vấn đề bằng chứng. Sự tồn tại của   một hợp đồng có thể gây tranh cãi nếu bạn không có bằng chứng về sự hình thành hợp đồng. Do đó, một bức  thư điện tử không có chữ ký sẽ là một vấn đề Cũ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: