Danh mục

làng nghề truyền thống Huế - Thêu Thuận Lộc

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 167.09 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Huế - Thêu Thuận LộcPhường Thuận Lộc, nằm ở trung tâm Thành nội Huế. Đã từ bao đời, nghề thêu ở đây đã được tồn tại, lúc đầu là những cá thể, dần dần thành những đơn vị, cơ sở sản xuất hợp tác độc lập và có tính chuyên nghiệp. Từ khi xây dựng triều đình nhà Nguyễn, thợ thêu không chỉ từ Quất Động, Bắc Hà mà từ nhiều nơi khác đã đến Huế để phục vụ cho nhu cầu của giới quý tộc thượng lưu. Nghề thêu cũng được phát triển từ đấy. Thêu Thuận Lộc Chính...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
làng nghề truyền thống Huế - Thêu Thuận Lộc Huế - Thêu Thuận LộcPhường Thuận Lộc, nằm ở trung tâm Thành nội Huế. Đã từ bao đời, nghề thêu ởđây đã được tồn tại, lúc đầu là những cá thể, dần dần thành những đơn vị, cơ sởsản xuất hợp tác độc lập và có tính chuyên nghiệp. Từ khi xây dựng triều đìnhnhà Nguyễn, thợ thêu không chỉ từ Quất Động, Bắc Hà mà từ nhiều nơi khác đãđến Huế để phục vụ cho nhu cầu của giới quý tộc thượng lưu. Nghề thêu cũngđược phát triển từ đấy. Thêu Thuận LộcChính những nghệ nhân nổi tiếng khắp nơi tập trung lại kết hợp nhuần nhuyễnvới đặc điểm tinh tế, tỉ mỉ của đôi tay người Huế đã tạo nên những sản phẩm thêungày càng tinh xảo độc đáo. Trong quá trình phát triển, nghề thêu Thuận Lộc vẫnduy trì được các chất liệu kim, chỉ thêu bằng chỉ tơ nhuộm cổ truyền để tạo nênnhững bức tranh thêu có giá trị thẩm mỹ.Một tác phẩm thêu hoàn chỉnh và có giá trị thẩm mỹ cao không chỉ thể hiện quađường kim mũi chỉ, mà qua ý tưởng sáng tác mẫu thêu hoặc biến một mẫu đề tàicụ thể trên một chất liệu khác bằng chỉ thêu trên nền vải.Ngày nay, bằng chất liệu kim chỉ thêu và nền vải thêu thường được nhập từ cácnước phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản... những sắc thái mới, đề tài và bố cụccủa tranh thêu Thuận Lộc ngày càng phong phú. Những tài nghệ, kỹ xảo và sựđiêu luyện của đôi tay người thợ thêu Huế đã tạo nên những bức tranh thêu độcđáo với nhiều loại hình phục vụ nhu cầu thẩm mỹ của nhiều đối tượng kháchtrong và ngoài nước.- Tranh làng chuồnGiữa thế kỷ XV, đời vua Lê Thánh Tông. Địa vực của làng là một vùng đất ruộngthấp ven một dải đầm nước lợ, nay thuộc xã Phú An, huyện Phú Vang, cách Huếchừng 9 km về hướng Đông Bắc Cư dân nơi đây làm nghề nông, nghề cá sôngđầm, và một số nghề phụ khác, nổi bật là nghề làm trướng - liễn giấy, nghề nấurượu và gói bánh Tét.Tranh trướng - liễn giấy làng ChuồnTrướng - liễn giấy làng Chuồn là một loại vật phẩm để trang trí nhà cửa trong dịpTết đầu năm của dân gian Huế và miền Trung. Sản phẩm chỉ bán vào dịp cuốinăm, công việc của nghệ phụ này được tiến hành sau vụ thu hoạch đông xuân.Vào thế kỷ trước, trướng liễn giấy làng Chuồn được in trên giấy dó thô do làngĐốc Sơ sản xuất, hoặc loại sang hơn được in trên giấy điều (đỏ) lấm tấm nhũvàng của người Tàu. Từ khi báo chí phổ biến, trướng liễn được in trên giấy báocũ. Giấy báo được nhuộm màu, bôi lên nhiều lớp, cắt theo kích thước vừa phảicủa bước y môn treo ngang, hay trướng liễn treo dọc. Màu sắc nền là “lòng điều,kế lục, chỉ vàng”, trên đó được in chữ và họa tiết trang trí.Liễn giấy làng Chuồn có 2 loại chính: liễn bông, một bộ phận gồm 4 bức in hoatheo kiểu tranh tứ bình: mai, lan, cúc, trúc. Liễn chữ mỗi bộ gồm 3 bức: một bứcđại tự cách điệu chữ Phúc, Lộc hay Thọ treo ở giữa và 2 liễn giấy hai bên.Bức đại tự được in ngửa ván lấy đường nét viền của chữ, rồi vẽ thêm các hình báttiên hoặc tứ linh bằng màu vàng, xanh, nổi bật trên nền đỏ. Đường biên lục bồiphía ngoài, được trang trí kiểu thức bát bửu cổ đồ, in theo dải, chồng lên nhaunhiều lượt hơi so le để nổi bật nét viền nhiều màu.Liễn bông và liễn câu đối thì gắn các khuôn in lên một thanh nẹp cố định in úpván, một màu hay xen kẽ nhiều màu trong mỗi lần in. Xong còn tô vẽ đường viềnmàu quanh chữ.Ngoài ra, còn có loại “y môn” treo ngang làm diềm che trước hoặc sau bàn thờ,hoặc ở các gian phụ. Kiểu thức in là “lưỡng long triều nguyệt” như các y môn vải,cũng có tua dải mũi đao, chia bức y môn thành 3 ô trang trí.Tất cả được in và vẽ nét viền xong, lại được bồi thêm cho dày, xén ngay ngắn,cuối cùng gắn qua khe tre ở hai đầu trên dưới nếu là liễn trướng, và gắn thanhtrục ngang phía trên, nếu là y môn.Tùy ý thích mà người mua chọn câu đối này hay câu đối khác, nội dung thườngthể hiện niềm cầu mong phúc đức, thịnh vượng, đề cao đạo hiếu, hay ca ngợicảnh sắc đầu xuân.Hiện nay, do đời sống khá giả hơn, dân gian ít dùng chất liệu đơn giản này, màchọn những y môn thêu, đối liễn chạm gỗ, nên nghề làm trướng liễn giấy làngChuồn chỉ còn lại vài ba nhà duy trì nghề nghiệp cha ông, đáp ứng nhu cầu trangtrí bàn gia tiên mộc mạc của những ngôi nhà tranh vách đất ngày càng hiếm dần.- Tranh Làng Sình Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng. Có thể phân làm ba loại:Tranh nhân vật chủ yếu là tranh tượng bà, vẽ một người phụ nữ xiêm y rực rỡ vớihai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại: tượng đế,tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ quanhnăm. Lại còn các loại tranh khác gọi là con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hìnhđàn ông đàn bà, và ảnh phền vẽ bé trai bé gái (phải chăng phền do chữ phồn thựccủa Ðông Hồ). Các loại nhân vật còn lại là tranh ông Ðiệu, ông Ðốc và Tờ bếp(có lẽ tranh vẽ Táo quân). Các loại tranh này sẽ đốt sau khi cúng xong. Tranh đồvật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông, áo bà, áo binh,tiền, cung ...

Tài liệu được xem nhiều: