CHÂM CỨU HỌC - HỆ THỐNG LẠC MẠCH
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 114.16 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Lạc Mạch là gì? + Trương-Cảnh-Nhạc chú giải thiên ‘Bản Du’ (LKhu 2) ghi: ‘Lạc tức là liên lạc với nhau”. + Trương-Chí-Thông chú giải thiên ‘Ngũ Vị Luận’ (LKhu 56) ghi: “ Lạc mạch ví như những chi lưu của giang hà, Tôn lạc ví như những chi lưu ngoài chi lưu, Đại lạc ví như ngoài giang hà còn có giang hà, bên ngoài nó tương thông với tôn lạc của 12 kinh mạch nhưng cuối cùng tất cả đều xuất ra để qui về với biển”. -Thiên ‘Kinh Mạch’ ghi: “Các mạch nổi lên mà chúng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHÂM CỨU HỌC - HỆ THỐNG LẠC MẠCH CHÂM CỨU HỌC HỆ THỐNG LẠC MẠCH A. Đại cương Lạc Mạch là gì? + Trương-Cảnh-Nhạc chú giải thiên ‘Bản Du’ (LKhu 2) ghi: ‘Lạc tứclà liên lạc với nhau”. + Trương-Chí-Thông chú giải thiên ‘Ngũ Vị Luận’ (LKhu 56) ghi: “Lạc mạch ví như những chi lưu của giang hà, Tôn lạc ví như những chi lưungoài chi lưu, Đại lạc ví như ngoài giang hà còn có giang hà, bên ngoài nótương thông với tôn lạc của 12 kinh mạch nhưng cuối cùng tất cả đều xuất rađể qui về với biển”. -Thiên ‘Kinh Mạch’ ghi: “Các mạch nổi lên mà chúng ta thấy đềuthuộc về Lạc mạch” (LKhu 10, 117) và ‘Những mạch hiện ra đều thuộc Lạcmạch” (LKhu 10, 121). Trương-Cảnh-Nhạc khi chú giải đoạn này của thiên Kinh Mạch giảithích: “Phàm những sợi gân nằm ở phía ngoài cánh tay đều hiện lên rõ ràng,tục gọi là gân xanh. Thực ra đây không phải là gân, không phải là mạch, đólà những đại lạc chứa huyết, gọi là ‘Phù Lạc’”. b- Cơ Cấu Của Lạc Mạch Sách Nan Kinh, điều 26 ghi: “Kinh có 12, Lạc có 15...”. Các tài liệu Kinh điển như Nội Kinh, Nan Kinh đều xác nhận có 15Lạc Mạch, đó là: · 12 Lạc của 12 Kinh. · 1 Đại lạc của Tỳ. · 2 lạc của Kỳ Kinh Bát Mạch. 1) Tại sao có đến 15 Lạc? Điều 26 Nan Kinh ghi: “Kinh có 12, Lạc có đến 15, ba Lạc dư ra lànhững Lạc nào?” Cũng Nan Kinh giải thích: “Thực vậy, có dương lạc cũngcó âm lạc, có đại lạc của Tỳ. Dương lạc chính là lạc của mạch Dương Kiều,Âm lạc là lạc của mạch Âm Kiều, do đó, có 15 lạc” Sách Nan Kinh cho 2 mạch của Kỳ Kinh Bát Mạch là mạch củaDương Kiều và Âm Kiều nhưng trong thiên ‘Kinh Mạch’(LKhu 10), lại chỉnhắc đến Lạc huyệt của mạch Đốc là huyệt Trường Cường và Lạc của Nhâmmạch là huyệt Vĩ Ế (Cưu Vĩ). Tại sao sách Nan Kinh ghi 2 Lạc mạch trên thuộc mạch Âm và DươngKiều, sách Nội Kinh Linh Khu lại cho đó là 2 Lạc của mạch Đốc và Nhâm.Không thấy tài liệu nào nói đến tên 2 lạc của mạch Âm và Dương Kiều màchỉ thấy nói đến tên huyệt Trường Cường (Lạc của mạch Đốc) và Vĩ Ế (Lạccủa mạch Nhâm). Dương-Huyền-Tháo, khi chú giải điều 28 Nan ghi: “...Con người có 2Kiều, gồm Âm và Dương, nằm ở 2 bên phía trong và ngoài chân. Ở ngườinam, bên ngoài chân gọi là ‘Kinh’, bên trong chân gọi là ‘Lạc’. Ở phái nữ,bên trong chân gọi gọi là ‘Kinh’, bên ngoài chân gọi là ‘Lạc’. Vì thế mới có2 Lạc của Âm và Dương Kiều. Kinh ghi rằng: ‘Nơi nam giới, nên tính từDương Kiều, phụ nữ nên tính từ Âm Kiều, đường nào được tính chính thứcthì được xem là ‘kinh’, tính phụ theo gọi là ‘Lạc’”. Như vậy, có thể hiểu rằng: vì Âm và Dương Kiều không có huyệtchính, phải lấy huyệt của các đường kinh giao hội. Dương Kiều giao hội vớimạch Đốc cho nên lấy Lạc mạch của mạch Đốc là huyệt Trường Cường, ÂmKiều giao với mạch Nhâm nên lấy mạch Lạc của mạch Nhâm là huyệt Vĩ Ế. 2) Tại sao Tỳ có đến 2 Lạc huyệt trong khi các đường kinh khácchỉ có 1 ? Trương-Cảnh-Nhạc giải thích: “...Kẻ ngu này xét rằng huyệt Lạc củakinh Tỳ là huyệt Công Tôn, nhưng lại có huyệt Đại Lạc là huyệt Đại Bao.Huyệt Lạc của Dương minh Vị là Phong Long nhưng trong thiên ‘BìnhNhân Khí Tượng Luận’ lại có đưa ra huyệt Đại Lạc của Vị là huyệt Hư Lý,trong các kinh khác huyệt Lạc chỉ có 1, riêng Tỳ và Vị có đến 2 huyệt Lạc,đó là vì Tỳ Vị là gốc của Tạng Phủ”. Riêng về Hư Lý, thiên ‘Bình Nhân Khí Tượng Luận’ (TVấn 18) ghi: “Đại Lạc của Vị, gọi là Hư Lý, nó chạy suốt lên hoành cách mô, chằng ngangvào Phế, vòng xuống dưới vú bên trái (tả nhũ), lúc nó động có thể chạm vàoáo. Mạch này để chẩn đoán tông khí (tức Vị khí)” (TVấn 18, 26). Như vậytuy mang tên là Đại lạc của Vị nhưng Hư Lý không phải là huyệt như huyệtĐại Bao của kinh Tỳ, không có ý nghĩa gì trong Châm cứu, mà chủ yếu chỉđể chẩn đoán Vị khí. Chính vì vậy hầu như toàn bộ các sách giáo khoa đềuchỉ nhắc đến 15 Lạc Mạch mà thôi (không nhắc đến Hư Lý). 3) Tại sao gọi Lạc thứ 2 của Tỳ là Đại Lạc ? Đinh-Đức-Dụng khi chú giải điều 28 Nan, ghi: “Lạc của Tỳ gọi là ĐạiLạc vì Tỳ tượng cho Thổ, chủ về ngôi trung cung, vượng cả 4 mùa, phân rađể nuôi dưỡng cả 4 tạng, vì thế mới gọi tên Đại lạc của Tỳ là Đại Bao”. Sách ‘Đồ Chú Nan Kinh Mạch Quyết’ ghi: “... Đường kinh Tỳ thốngquán các đường kinh của Tạng Phủ, Âm Dương, Biểu Lý, trên dưới, vì thế,gọi Lạc của Tỳ là Đại Lạc”. c- Phân Loại Lạc Mạch Tuy gọi chung là Lạc Mạch nhưng xét về vị trí, chức năng, có thểphân làm 2 loại Lạc Mạch là Lạc Dọc và Lạc Ngang. c.1) Lạc Dọc: “Là những nhánh tách ra từ Kinh chính, có thể đi songsong với Kinh chính nhưng nó không đi vào sâu cũng không dài như cácKinh chính” (Trung Y Học Khái Luận). c.2) Lạc Ngang: (Sách ‘Trung Y Học Khái Luận’ gọi là Biệt Lạc) lànhững nhánh từ kinh mạch rẽ ra, thường ngắn vì chủ yếu là nối kinh khí giữacác Lạc và Nguyên huyệt của 2 đường kin ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHÂM CỨU HỌC - HỆ THỐNG LẠC MẠCH CHÂM CỨU HỌC HỆ THỐNG LẠC MẠCH A. Đại cương Lạc Mạch là gì? + Trương-Cảnh-Nhạc chú giải thiên ‘Bản Du’ (LKhu 2) ghi: ‘Lạc tứclà liên lạc với nhau”. + Trương-Chí-Thông chú giải thiên ‘Ngũ Vị Luận’ (LKhu 56) ghi: “Lạc mạch ví như những chi lưu của giang hà, Tôn lạc ví như những chi lưungoài chi lưu, Đại lạc ví như ngoài giang hà còn có giang hà, bên ngoài nótương thông với tôn lạc của 12 kinh mạch nhưng cuối cùng tất cả đều xuất rađể qui về với biển”. -Thiên ‘Kinh Mạch’ ghi: “Các mạch nổi lên mà chúng ta thấy đềuthuộc về Lạc mạch” (LKhu 10, 117) và ‘Những mạch hiện ra đều thuộc Lạcmạch” (LKhu 10, 121). Trương-Cảnh-Nhạc khi chú giải đoạn này của thiên Kinh Mạch giảithích: “Phàm những sợi gân nằm ở phía ngoài cánh tay đều hiện lên rõ ràng,tục gọi là gân xanh. Thực ra đây không phải là gân, không phải là mạch, đólà những đại lạc chứa huyết, gọi là ‘Phù Lạc’”. b- Cơ Cấu Của Lạc Mạch Sách Nan Kinh, điều 26 ghi: “Kinh có 12, Lạc có 15...”. Các tài liệu Kinh điển như Nội Kinh, Nan Kinh đều xác nhận có 15Lạc Mạch, đó là: · 12 Lạc của 12 Kinh. · 1 Đại lạc của Tỳ. · 2 lạc của Kỳ Kinh Bát Mạch. 1) Tại sao có đến 15 Lạc? Điều 26 Nan Kinh ghi: “Kinh có 12, Lạc có đến 15, ba Lạc dư ra lànhững Lạc nào?” Cũng Nan Kinh giải thích: “Thực vậy, có dương lạc cũngcó âm lạc, có đại lạc của Tỳ. Dương lạc chính là lạc của mạch Dương Kiều,Âm lạc là lạc của mạch Âm Kiều, do đó, có 15 lạc” Sách Nan Kinh cho 2 mạch của Kỳ Kinh Bát Mạch là mạch củaDương Kiều và Âm Kiều nhưng trong thiên ‘Kinh Mạch’(LKhu 10), lại chỉnhắc đến Lạc huyệt của mạch Đốc là huyệt Trường Cường và Lạc của Nhâmmạch là huyệt Vĩ Ế (Cưu Vĩ). Tại sao sách Nan Kinh ghi 2 Lạc mạch trên thuộc mạch Âm và DươngKiều, sách Nội Kinh Linh Khu lại cho đó là 2 Lạc của mạch Đốc và Nhâm.Không thấy tài liệu nào nói đến tên 2 lạc của mạch Âm và Dương Kiều màchỉ thấy nói đến tên huyệt Trường Cường (Lạc của mạch Đốc) và Vĩ Ế (Lạccủa mạch Nhâm). Dương-Huyền-Tháo, khi chú giải điều 28 Nan ghi: “...Con người có 2Kiều, gồm Âm và Dương, nằm ở 2 bên phía trong và ngoài chân. Ở ngườinam, bên ngoài chân gọi là ‘Kinh’, bên trong chân gọi là ‘Lạc’. Ở phái nữ,bên trong chân gọi gọi là ‘Kinh’, bên ngoài chân gọi là ‘Lạc’. Vì thế mới có2 Lạc của Âm và Dương Kiều. Kinh ghi rằng: ‘Nơi nam giới, nên tính từDương Kiều, phụ nữ nên tính từ Âm Kiều, đường nào được tính chính thứcthì được xem là ‘kinh’, tính phụ theo gọi là ‘Lạc’”. Như vậy, có thể hiểu rằng: vì Âm và Dương Kiều không có huyệtchính, phải lấy huyệt của các đường kinh giao hội. Dương Kiều giao hội vớimạch Đốc cho nên lấy Lạc mạch của mạch Đốc là huyệt Trường Cường, ÂmKiều giao với mạch Nhâm nên lấy mạch Lạc của mạch Nhâm là huyệt Vĩ Ế. 2) Tại sao Tỳ có đến 2 Lạc huyệt trong khi các đường kinh khácchỉ có 1 ? Trương-Cảnh-Nhạc giải thích: “...Kẻ ngu này xét rằng huyệt Lạc củakinh Tỳ là huyệt Công Tôn, nhưng lại có huyệt Đại Lạc là huyệt Đại Bao.Huyệt Lạc của Dương minh Vị là Phong Long nhưng trong thiên ‘BìnhNhân Khí Tượng Luận’ lại có đưa ra huyệt Đại Lạc của Vị là huyệt Hư Lý,trong các kinh khác huyệt Lạc chỉ có 1, riêng Tỳ và Vị có đến 2 huyệt Lạc,đó là vì Tỳ Vị là gốc của Tạng Phủ”. Riêng về Hư Lý, thiên ‘Bình Nhân Khí Tượng Luận’ (TVấn 18) ghi: “Đại Lạc của Vị, gọi là Hư Lý, nó chạy suốt lên hoành cách mô, chằng ngangvào Phế, vòng xuống dưới vú bên trái (tả nhũ), lúc nó động có thể chạm vàoáo. Mạch này để chẩn đoán tông khí (tức Vị khí)” (TVấn 18, 26). Như vậytuy mang tên là Đại lạc của Vị nhưng Hư Lý không phải là huyệt như huyệtĐại Bao của kinh Tỳ, không có ý nghĩa gì trong Châm cứu, mà chủ yếu chỉđể chẩn đoán Vị khí. Chính vì vậy hầu như toàn bộ các sách giáo khoa đềuchỉ nhắc đến 15 Lạc Mạch mà thôi (không nhắc đến Hư Lý). 3) Tại sao gọi Lạc thứ 2 của Tỳ là Đại Lạc ? Đinh-Đức-Dụng khi chú giải điều 28 Nan, ghi: “Lạc của Tỳ gọi là ĐạiLạc vì Tỳ tượng cho Thổ, chủ về ngôi trung cung, vượng cả 4 mùa, phân rađể nuôi dưỡng cả 4 tạng, vì thế mới gọi tên Đại lạc của Tỳ là Đại Bao”. Sách ‘Đồ Chú Nan Kinh Mạch Quyết’ ghi: “... Đường kinh Tỳ thốngquán các đường kinh của Tạng Phủ, Âm Dương, Biểu Lý, trên dưới, vì thế,gọi Lạc của Tỳ là Đại Lạc”. c- Phân Loại Lạc Mạch Tuy gọi chung là Lạc Mạch nhưng xét về vị trí, chức năng, có thểphân làm 2 loại Lạc Mạch là Lạc Dọc và Lạc Ngang. c.1) Lạc Dọc: “Là những nhánh tách ra từ Kinh chính, có thể đi songsong với Kinh chính nhưng nó không đi vào sâu cũng không dài như cácKinh chính” (Trung Y Học Khái Luận). c.2) Lạc Ngang: (Sách ‘Trung Y Học Khái Luận’ gọi là Biệt Lạc) lànhững nhánh từ kinh mạch rẽ ra, thường ngắn vì chủ yếu là nối kinh khí giữacác Lạc và Nguyên huyệt của 2 đường kin ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
hệ thống mạch lạc âm cứu học tài liệu học châm cứu cách châm cứu giáo trình châm cứuGợi ý tài liệu liên quan:
-
13 trang 107 1 0
-
HỆ THỐNG HUYỆT - Phương Pháp Xác Định Vị Trí Huyệt
11 trang 24 0 0 -
9 trang 23 0 0
-
6 trang 21 0 0
-
6 trang 20 0 0
-
Chuyên đề chẩn trị bệnh Đông y
686 trang 20 0 0 -
CHÂM CỨU HỌC - HỆ THỐNG KINH CÂN
5 trang 20 0 0 -
HỌC THUYẾT KINH LẠC - HỆ THỐNG LẠC MẠCH
7 trang 19 0 0 -
9 trang 18 0 0
-
HỆ THỐNG HUYỆT - Nhóm Huyệt NGŨ DU
10 trang 18 0 0 -
10 trang 17 0 0
-
6 trang 16 0 0
-
6 trang 16 0 0
-
Giáo trình Châm cứu-các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc - Trường Trung cấp Quốc tế Mekong
108 trang 16 0 0 -
Châm cứu học - Chương 6 TÚC DƯƠNG MINH VỊ KINH
16 trang 16 0 0 -
6 trang 15 0 0
-
THỰC HÀNH CHÂM CỨU TRỊ LIỆU - ĐỚI HẠ
9 trang 14 0 0 -
7 trang 14 0 0
-
CHÂM CỨU HỌC - LẬP PHƯƠNG TRỊ LIỆU
8 trang 14 0 0 -
HỆ THỐNG HUYỆT - Nhóm Huyệt GIAO HỘI
16 trang 14 0 0