Danh mục

Thơ võ Bình Định, nguồn thơ ca bị quên lãng - Lê Đẩu

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 205.09 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thơ võ Bình Định, nguồn thơ ca bị quên lãng - Lê ĐẩuTrong lịch sử dân tộc Việt Nam có trên 4000 năm văn hiến gìn và giữ nước. Trải qua biết bao thời đại anh hùng nào là Lê, Lý, Trần, Nguyễn... nhưng thời đại mà tôi yêu thích nhất là nhà Tây Sơn. Cái thời mà theo quan niệm tôi: Ðất nước có một nền văn học rực rỡ, có một nền chữ viết đặc biệt – chữ Nôm; và cũng là thời chiến tranh chống ngoại xâm oai hùng nhất. Ðã là người Việt, không ai không...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thơ võ Bình Định, nguồn thơ ca bị quên lãng - Lê ĐẩuThơ võ Bình Định, nguồn thơ ca bị quên lãng - Lê Đẩu Trong lịch sử dân tộc Việt Nam có trên 4000 năm văn hiến gìn và giữnước. Trải qua biết bao thời đại anh hùng nào là Lê, Lý, Trần, Nguyễn... nhưngthời đại mà tôi yêu thích nhất là nhà Tây Sơn. Cái thời mà theo quan niệm tôi:Ðất nước có một nền văn học rực rỡ, có một nền chữ viết đặc biệt – chữ Nôm;và cũng là thời chiến tranh chống ngoại xâm oai hùng nhất. Ðã là người Việt,không ai không tự hào về lịch sử thời Tây Sơn, cái thời đã sinh ra vị anh hùngbất tử: Quang Trung - Nguyễn Huệ, cái thời đã đưa dân tộc chúng ta lên đỉnhcao, làm cho các nước láng giềng khiếp phục. Nhưng đặc biệt nhất của thời nàylà nền văn học chữ Nôm ra đời, tạo nên một dòng thơ ca mang sắc thái riêngbiệt đầu tiên của người Việt Nam. Trong nguồn thơ ca ấy có một mảng rấtđặc biệt, đó là nguồn thơ ca trong võ thuật, còn gọi là Thơ Võ. Nhưng đáng tiếcthay nhà Tây Sơn quá ngắn, nhà Nguyễn lên cầm quyền, họ trả thù bằng cáchhủy bỏ tất cả những gì mang dấu tích cũ. Dòng họ, con cháu nhà Tây Sơn phảilẩn trốn khắp nơi, do đó cái nguồn thơ này bị tản mạn và được lưu truyền mộtcách âm thầm, bí mật lan tỏa trong dân gian. Chính vì vậy mà hôm nay tôimuốn đem cái sở học từ vị võ sư của tôi đã truyền lại và xin viết lên đây mộtvài điều đã biết và học được về thơ võ Tây Sơn này. Thế nào là nguồn thơ ca trong võ thuật? Nói đến thơ ca việt Nam là phảinghĩ ngay đến ca dao. Ca dao là cội nguồn của dân tộc, khởi đầu từ tục ngữ,phong dao, nó mang tính thơ, nhạc và hồn người, hồn nước. Ca dao là của riêngcủa người Việt nam, bởi lẽ người Việt Nam chúng ta, ngay từ thủa nằm nôi đãgắn bó ít nhiều với thể thơ này. Ngày nay trong kho tàng văn hóa, ca dao đã dàntrải qua ba miền đất nước, chữ nghĩa ca dao được lưu truyền qua mọi nghệ thuật.Thể thơ lục bát đã dành được một vị trí cao trong văn học, nghệ thuật Việt Nam,tiêu biểu là truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Trong cái nguồn thơ ca vô tận ấy, có một mảng bị lãng quên hay nóithẳng ra là đã bị mai một. Cái mảng thơ ca này rất đặc biệt, đó là thơ ca trongvõ thuật gọi là Thơ Võ. Vậy thế nào là thơ võ? Cổ nhân ta sau những năm tháng chinh chiến, đã học hỏi và đúc kết biếtbao nhiêu là kinh nghiệm, thì trong những ngày tháng thanh bình, quây quầnvới nhau mới đem những kinh nghiệm ấy ra mà phân tích, rút tỉa cái cốt lõitruyền lại cho con cháu về sau. Sau khi chiết chiêu, phân thế võ, chỉ rõ cácđòn, thế đánh sanh tử, họ xếp lại thành một bài võ, rồi dùng thơ ca, diễn tả cácthế võ ấy một cách hào hùng, hợp với vóc dáng, nhân cách, triết lý của conngười nghệ sĩ Việt Nam:Những khi ngày rỗi việc nhànKiếm làm một thảo” luận bàn ngâm ngaHoặc:Nay trăm đường thế biến raKiếm làm một thảo ngâm nga để truyền. Truyền là truyền cái tâm đắc, sở học, truyền cái cốt lõi một đời người. Từđó các bài thơ võ Hán Nôm ra đời, phép nêm vận rất là chặt chẽ, theo luậtÐường thi. Ðủ các khổ: Tứ tuyệt, ngũ ngôn, song thất lục bát... Nhưng đặc biệtlà các bài phú võ, hoàn toàn làm theo thể lục bát, là nguồn thơ của người ViệtNam. Bài phú võ là một bài vè gồm các câu 6 câu 8, phép nêm vận, luật bằngtrắc mang đầy tính nhạc và thơ, khi ngâm lên thể hiện được sự hào hùng, lãngđãng cái tính chất của ngàn xưa... của Tay Quyền, Ngọn Roi trong chiến trận,mang lại sự hưng phấn diệu kỳ. Nay xin đơn cử hai bài thơ võ sau đây để nêu rõ tính chất nghệ thuật củanguồn thơ này. Gồm một bài thơ thảo bộ Ðồng Nhi và một bài thảo roi TháiSơn. Thảo bộ là bài tập về tay không, và thảo roi là bài tập với cây gậy, câycôn. Roi là tiếng Nôm, mà Côn là tiếng Hán; cũng như thảo là tiếng Nôm màquyền là tiếng Hán. Từ Thảo trong cổ thư là một thể viết chữ Hán (lệ, chân,triện, thảo) viết rất nhanh, rất nghệ thuật mà ngày nay thường gọi là lối viết baybướm, lả lướt: Thảo thư. Trong nét thảo là nét vẽ, nét hoa. Do đó khi luyệntập một bài thảo, tức là tập một bài võ ta, chúng ta có thể hình dung đó là mộtbài võ hài hòa, uyển chuyển, nhanh nhẹn, linh hoạt, đẹp đẽ; khác với võ Tàu vàcác môn võ khác trên thế giới.Thảo Bộ Ðồng Nhi(Ðứa trẻ thần đồng)- Thiệu võ- Bái tổChấp thử lập Ðồng NhiKhuynh thân bạt thủ chiTiền tấn du luân thíchÐình bộ lập song phiÐại Bàng lai thối bộTiên cô tấn đả chiThái Hòa hoành quá hảiÐồng Tân thối đả chiNhị thủ giai trụ thíchLưỡng túc nghịch song phiBạch xà lai ngọa địaHồi đầu tấn thích chiÐầu thân giai đả thốiTróc túc ác hổ tùyChuyển luân khinh thoái bộNhứt hộ thủ môn kỳHồi đầu bái Tổ Sư.Chuyển thành tiếng Việt:- Phú (ca dao)Vào đường Bái Tổ trước tiênChấp tay đứng trụ lập liền Ðồng NhiNghiêng mình bạt thủ một khiBước tới tay phải tức thì đâm lênDừng chân bay lập hai bênÐại bàng lui bước từ trên bay vềHà Tiên Cô bước đánh liềnThái Hoà qua biển cũng lìa cung mâyÐồng Tân lùi đấm xuống ngayHai tay cứng chắc đâm ngay tức thìHai chân đá nghịch như phiBạch xà trở lại nằm ...

Tài liệu được xem nhiều: